Những người vợ lính thời binh lửa |
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của Cộng Sản quốc tế với đạo quân tay sai tiền kích của chúng là binh đội Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đã rất mờ nhạt đằng sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ thì hình ảnh những người chị vô danh ấy đã dần hiện rõ trong một ánh sáng diệu kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh và ngợi ca. Ðó là những người lính không có vũ khí, không số quân, không tiền lương, không cả lương thực hành quân, nhưng là những người lính tỏa hào quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngã thắt ngặt nhất, mà đã góp phần đem chiến thắng quyết định trên chiến trường. Ðó là ‘Những người vợ lính’, những người chị cao cả mà đã cùng chồng dấn mình trong cơn bão lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước cả các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai biết được. Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ phủ trên chiếc quan tài được ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ, không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy điệu ai oán. Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui rúc trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những những cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt của đêm. Ăn uống thì đạm bạc đến không có gì đạm bạc hơn được nữa. Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất nước mắm hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà có thể tìm thấy mọc đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh đồng lầy. Cả gia đình người lính Ðịa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần chung quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của mình. Không than thở, không ta thán và vui lòng với niềm hạnh phúc mong manh của mình. Một năm 365 ngày, mười năm, hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những người chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc là gì. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ì ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức nguyện cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn ra sao, thì chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy. Chị Phạm Thị Thàng, nữ anh thư đất Gò Công Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công việc nào cũng biểu hiện hình ảnh và đức tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đình, trông nom dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn. Thứ hai, khi quân giặc đã thấy dẫy đầy ngoài những vòng rào kẽm gai, thì những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đã chiến đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Ðình này thì ít nhất cũng có những chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm. Những ngày đầu tháng mười này, của 44 năm về trước, một cuộc chiến đẫm máu đã diễn ra tại đồn nghĩa quân nhỏ bé Giồng Đình, thuộc tỉnh Gò Công . Chỉ với một trung Đội nghĩa quân 24 người, và sự góp sức của nhữngngười vợ lính can trường, họ đã tử thủ để giữ đồn, trước cuộc tấn công của gần một tiểu đoàn Công Quân với vũ khí trang bị đầy đủ. Và những anh thư nữ kiệt của đất phương nam đã làm rạng danh giòng máu anh hùng, khi đóng góp cả thân xác mình để tạo nên chiến thắng thần kỳ ấy. Bình thường, các chị chỉ là người phụ nữ chân yếu tay mềm, lo việc tề gia nội trợ.Chăm sóc con cái. Nhưng khi phải đối mặt với lũ cộng quân phi nhân, tàn ác tựa sói lang, thì các chị bỗng trở nên những dũng tướng dám hy sinh cả mạng sống của mình cho sự an nguy của những người xung quanh. Như một nén hương lòng thắp muộn, CTBVDL kỳ 76 xin đọc gởi đến quý vị bài viết NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI BINH LỬA. Đã được đăng trên trang nhà KBC hải Ngoại.com để tưởng nhớ đến sự hy sinh vô cùng anh dũng của các chị ở đồn Giồng Đình nói riêng và tất cả các anh thư nữ kiệt đã từng đóng góp máu xương bảo vệ mảnh đất miền nam tụ do trong một thời gian dài. Để người dân có được những tháng ngày êm đềm hạnh phúc. Hôm nay là lần giỗ thứ 44 của các chị, gần nửa thế kỹ đã trôi qua, giờ này chắc hẳn anh linh các chị đã siêu thoát đến một cõi hằng sống nào đó.Nhưng đối với chúng tôi, những người còn mang một món nợ ân tình lớn lao đối với Những CSQLVNCH nói chung và các chị nói riêng, không bao giờ có thể quên được những tấm gương hy sinh anh dũng ấy. Và sử sanh cũng sẽ khắc ghi tuổi tên các chị cho đến ngàn đời sau. Ðêm 2 Tháng Mười 1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong một đêm Việt Cộng đã tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân số thật lớn. Ðồn Giồng Ðình thuộc tỉnh Gò Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính Cộng. Ðây là một lực lượng chính qui Việt Cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Ðình nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một Trung Ðội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và thâm độc, lực lượng Cộng quân đã bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông bà lão già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là những người “giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, thì còn từ ngữ nào, hình dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của Cộng Sản nữa không. Ðúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu Bích, đã mở cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Ðình, với sự tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, vì với quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên thì cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Ðình. Trên lý thuyết, thì giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật Cộng quân đã chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đã chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, Cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Ðình. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả lời là không, không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của các anh, mà còn là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng Ðình sẽ không thể thực hiện được, nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh. Ðồn Giồng Ðình nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh Gò Công, do một Trung Ðội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Ðồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay súng mà đã đủ, nên tất cả những người vợ lính trong đồn đều đã được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đã được nhân lên gấp đôi. Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất, những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ bò dưới lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu tìm cái sống trong khi chồng và cha của họ sắp ngã gục ngoài chiến hào. Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, thì tình trạng bên trong đồn Giồng Ðình đã khá là bi đát. Ðã có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ còn 8 Nghĩa Quân còn chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu. Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn Giồng Ðình. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một lực lượng quá đông của địch. Nhìn ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đã đã tràn vào đen ngòm như những con quái vật hung hãn. Anh Hùng chỉ còn trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt Cộng bắn vào quá gần, các em không còn khóc được nữa mà đã nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng thì thào: - Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh bò về giữ. Lô cốt mất là đồn mình mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào thì... thì... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được. Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn vợ con, rồi nhìn về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đã yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đã kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Ðồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đã xảy ra cho đồng đội. Nhưng nếu Việt Cộng chiếm được lô cốt ấy, thì coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đã hò hét ngay sát bên rồi: - Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh. Anh Hùng nhìn chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong lòng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con mình. Hai đứa nhỏ chẳng biết còn sống hay đã chết. Anh phóng mình xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái bóng đen đã quá gần. Anh Hùng đã bò vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng. Nước mắt anh rơi lã chã trên nền đất. Anh đã đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nổ giòn giã ngay sát tuyến phòng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đã điểm. Chị Thàng sẽ làm gì với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong lòng: - “Chỉ còn một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái gì sẽ xảy đến cho vợ con mình, vì dưới chân lô cốt anh tử thủ đã đông nghẹt quân giặc. Ðủ mọi thứ loại súng nổ chát chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc là mình đã nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa. Cuộc chiến đấu đã kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đã phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Ðình. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2 Tháng Mười 1965. Tình hình đã quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, quyết định thà hy sinh còn hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn: - Hãy bắn lên đầu chúng tôi! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đã thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hãy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt Cộng đông lắm. Bắn đi... bắn... Sau tiếng gọi thống thiết của người Ðồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu Gò Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu giẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lỗ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa tiếng súng nổ giòn, dường như người ta nghe âm thanh rì rì của máy bay. Không Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đã xuất kích. Ðến đây thì Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đã có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Ðình đã đánh dấu chấm hết, với phần thắn nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch đã kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối. Khi ánh hừng đông của một ngày mới đã lên, hai Ðại Ðội Ðịa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng Gò Công chỉ huy đã đến và tổ chức bung quân ra lục soát. Quân Cộng đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Ðồn Trưởng Thi, Ðồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đã kháng cự mãnh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt Cộng này mang trên mình rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này. Anh Thi và anh Hùng đã bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên Cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt Cộng bắt đi tải thương lén trốn về được đã cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính Cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn? Vì nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết vì nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt Cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục của thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu. Ðó là lý do giải thích tại sao sau ngày 30 Tháng Tư 1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế binh Cộng Sản trên đường phố. Nhưng đối với anh Hùng, thì tất cả những gì mà Việt Cộng đã trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt, quân Cộng đã rút đi, thì anh đã như một người điên lao mình ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đã một mình một súng trấn giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng bò vào khúc hào mà anh đã nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt Cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ thì chị Thàng cũng đi vào cõi chết, vì chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh chờ cho những tên Việt Cộng nhào vào, chị rút chốt. Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đã được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào lòng và gần như ngất xỉu. Nhưng khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngổn ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của mình, anh Hùng thấy trong lòng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đã cứu sống được tất cả những thương binh. Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đã đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Ðình. Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, thì chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Ðình đều sẽ chết hết. Anh Hùng ẵm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người còn sống, những người vợ lính khác đã gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẻo chiến trường, chị Thạch Thị Ðịnh, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta, những công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xã hội, nhưng là những người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người lính từ miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù miền Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia đình. Nếu anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, thì anh mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. Còn nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, thì anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đã sinh ra anh. Ðầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đã không thể chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đã nai nịt tề chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn bò lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn dò đường. Ðêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lỗ nào là thảy lựu đạn vô cái lỗ đó, vì ở đó chính là cái miệng hầm chốt của địch. Ðến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đã reo hò trương Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đã trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của những người lính trận. Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt thòi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui lòng với những gì mình có. Một góc hầm tối tăm, một chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái chén sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của những người vợ lính. Chị Thàng đã chết đi, anh linh của chị cùng hai cháu bé đã thăng thiên lên cõi vĩnh hằng, nhưng những người còn sống cùng thời với chị, cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên tên chị. “Người chị cao cả Phạm Thị Thàng”. Vì tên chị đã được trân trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam chống Cộng Sản quốc tế và Hà Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và của lịch sử hình thành nhân con người. Vô danh www.kbchaingoai.net ---o0o--- Một Chút Tình Cho... Kẻo mai này ... Tôi biết ông từ những năm 70s. Lúc ấy chúng tôi đang ở trại cải tạo Vĩnh Quang thuộc tỉnh Vĩnh Phú, vùng trung du nổi tiếng với những đồi trà bát ngát và dãy núi Tam đảo. Ông ở đội 14 Nông nghiệp gồm phần lớn các sĩ quan cấp tá. Tôi ở đội 8 Nông nghiệp kiêm Văn nghệ gồm phần lớn sĩ quan cấp uý. Năm ấy, ông ở vào khoảng tuổi “ tri thiên mệnh “. Nay ông đã “ thất thập cổ lai hy “. Năm ấy, tôi vẫn còn “ nhi lập “, mà nay đã là “ tri thiên mệnh “. Thời gian như bóng câu. Thấm thoát đã hơn 20 năm. Dài hơn cả quãng đời 15 năm lưu lạc của nàng Kiều. Thế mà đã 20 năm rồi ư ? Tôi ngậm ngùi tự hỏi khi cầm tập thơ “ Chuyện ngày xưa “ ông gởi tặng. Tôi có một thói quen. Khi cầm một quyển sách hoặc tờ tạp chí, tôi chỉ thoáng lướt qua tờ bìa hoặc trang nhất, rồi lật ngay qua bìa sau hoặc trang cuối. Đoạn trích bài tựa in ở bìa sau tập thơ làm tôi bùi ngùi : “ Cuộc đời phù du dâu bể, vật chất phù vân sớm về tối đi, phải chăng chỉ còn lại chút tình cho người, cho ta…” Tôi nhắm mắt lại. Thoáng trong trí tôi một câu văn đọc đâu đó. Đại ý về những ngày xa xưa thật xưa. Người viết muốn được ai đó cầm bút ghi lại. Kẻo mai này … trí nhớ tiêu hao. Kẻo mai này trí nhớ tiêu hao. Ôi kiếp người còm cõi. Suốt đời là một kiếp tha hương. Bao nhiêu năm lưu đầy quê nhà và còn bao nhiêu năm nữa lưu đầy quê người. Có vui chăng chỉ là một chút tình cho người … cho ta … để : “ Mơ thấy dáng em tuổi dậy thì Gío xuân tha thướt tà áo Việt E lòng còn nặng cánh chia ly.” ( Tết Ca Li – Như Hoa ) E lòng còn nặng cánh chia ly Tháng 5 năm 1982, phần lớn tù cải tạo trại Vĩnh Quang được chuyển vào Xuân Lộc , Long Khánh. Tại trại Z30A Xuân Lộc, tôi may mắn được biên chế ở cùng phòng, cùng đội và nằm cách ông một người tù già khác. Dù đã biết ông từ khi còn ở ngoài Bắc, nhưng chỉ đến lúc này, tôi mới biết rõ hơn về ông. Bên dưới dáng người mỏng tanh, miệng như lúc nào cũng sẵn nụ cười, chân bước thấp bước cao ( dạo ấy ông bị bệnh thần kinh tọa ) là một trái tim rất văn nghệ. Đêm thứ bảy nào, sau khi buồng giam đã tắt đèn và mọi người đã vào nằm trong mùng, tôi đều đàn và hát cho đến rất khuya. Sợ làm khó chịu các anh em không thích nghe nhạc hoặc chê tôi hát dở, tôi đàn rất nhẹ và hát rất khẽ. Nhưng giữa đêm khuya của rừng núi, tiếng đàn hát dù nhỏ và nhẹ cách mấy, cũng đều nghe rõ mồn một, ( và dù có dở cách mấy ), cũng đều gây một cảm giác ngậm ngùi. Nhất là với những người tù không biết ngày về như anh em chúng tôi. Dần dà, đã thành một thói quen. Tối thứ bảy, tôi thức khuya đàn hát. Các anh em cùng phòng thức để nghe ( hôm sau chủ nhật, mọi người được nghỉ lao động ). Những bài hát về thân phận con người. Về những mối tình tan vỡ. Về một kiếp lưu đầy. Người cuối cùng thức với tôi mỗi tối thứ bảy là ông. Sở dĩ tôi biết được là vì tiếng ông đằng hắng. Rất nhẹ và mong manh. Rồi từ từ, một cách rất khiêm tốn, ông cũng tham gia hát. Những bài hát Mỹ của thập niên 50s. Qua ông , tôi được biết bài Tennessy Waltz bất hủ. Sau này, tôi đã viết lời Việt cho bài hát và dùng để tán người sẽ là mẹ của các con tôi. Giọng hát ông, cũng như thơ ông, cũng như con người ông, nhẹ nhàng chứa chan tình cảm. Thứ tình cảm không sôi nổi nhưng rất dịu dàng. Ông kể cho tôi nghe về những ngày ông du học tại Mỹ. Về bài thơ “ Gĩa từ Monterey “, với cuộc chia tay người tình bản xứ không biết bao giờ gặp lại. Cuộc chia tay ấy hẳn phải là u uất nặng nề lắm. Nhưng không, những câu thơ thật nhẹ, thật mong manh : “ Hè Monterey tôi từ biệt nàng Cuối đường Fremont chạy dài ra bể. Nàng hỏi, chiến tranh khi nào dứt ? Tôi đáp, không nói được tương lai Tôi hỏi, tình ta khi nào thôi ? Nàng nhìn tôi Đôi mắt xanh biếc Chẳng nói ( Gĩa từ Monterey – Như Hoa ) Ông viết bài thơ này vào tháng 4 năm 1974 tại Monterey. Ông không biết rằng, chỉ đúng một năm sau thôi, là chiến tranh sẽ chấm dứt ( một cách tức tưởi ). Và ông sẽ bị ném vào trại cải tạo. Và chân ông sẽ bước thấp bước cao, không phải ở“ cuối đường Fremont chạy dài ra bể “, mà là trên khắp các nẻo đường quê hương, với : “ Mùa đông gío rít lạnh Nắng hè cháy thịt da Đất cày lên sỏi đá Khoai sắn chẳng no lòng “ ( Mảnh đất tình quê – Như Hoa ) Tôi chợt nhớ những đồi trà mênh mông dưới chân rặng Tam Đảo. Tôi chợt nhớ những đồi khoai mì bát ngát bao bọc lấy khu trại Vĩnh Quang. Những buổi chiều cuốc đất trên đồi vời trông về một miền cố hương xa tít. Thèm một bữa ăn no. Thèm một chén trà nóng. Thèm một đôi bàn tay mềm mại. Chỉ cầm thôi để nghe mềm nhũn cả châu thân. Trời cuối tháng mười se se lạnh. Thỉnh thoảng những cơn mưa nhẹ chỉ đủ làm ướt áo. Tấm áo vá của muôn ngàn nỗi đau. Ôi mùa thu đất Bắc. Đẹp biết bao trong văn thơ hoài cổ nhưng cũng ảm đạm biết bao cho những thân phận lưu đầy. Nhưng ở ông, những điều tưởng chừng như sẽ để lại vết hằn rất sâu trong tâm hồn nhậy cảm của ông, lại được hóa giải một cách rất nhẹ nhàng, như nụ cười ông, như giọng nói ông : “ Vận nước nổi trôi Chí trai không tròn Tôi đi tù Mẹ gìa không nơi nương tựa. “ ( Mẹ tôi – Như Hoa ) Thời gian tôi gần gủi ông cũng vài năm. Nhưng trong trí nhớ còm cõi của tôi, tôi không moi ra được cái hình dung về khuôn mặt ông lúc giận dữ. Dù rằng, tôi biết ông có nhiều điều để giận dữ. Tôi chỉ còn nhớ được nụ cười hiền và nét đăm chiêu. Tuy ông là người lúc nào cũng cười, dù trong những năm tháng đáng khóc nhất, nhưng ông lại ngạc nhiên khi thấy người con gái yêu của mình lúc nào cũng … cười : “ Đói khổ và bất hạnh Cớ sao cô lại cười Nào ai trả lời đặng Riêng chỉ nàng biết thôi. “ ( Nụ cười – Như Hoa ) Một chút tình ... “ Cuộc đời phù du dâu bể, vật chất phù vân sớm về tối đi ... “ Hay nói một cách khác, cuộc đời vốn bấp bênh. Mới đó mà đã mất tăm. Mới đó mà đã biền biệt. Còn chút tình nào cho nhau, xin hãy cho ngay hôm nay. Đừng nấn ná chờ đợi. Kẻo đến một lúc nào đó ... qúa muộn. Tuổi ông đang mấp mé bên bờ tử biệt. Mà hình như tôi cũng vậy. Nào ai biết được, khi buổi sáng thức dậy không còn biết trước hiên nhà có vuông nắng ngọt ngào, nhìn thấy mà thèm sống đến muốn ... chết được. Hay một buổi sáng không còn thức dậy được nữa. Mà đã lặng lẽ một mình về cõi quạnh hiu. Cái bến bờ hiu quạnh ấy ai cũng sẽ một lần qua, nhưng bởi không biết bao gìờ nên cuộc đời này vẫn còn được chút niềm vui. Đã gần 10 năm nay, kể từ khi qua Mỹ định cư, tôi không gặp lại ông. Sự liên lạc giũa chúng tôi chỉ là những trang thư ( mà phần lớn là ông viết. Nét chữ viết tay phóng khoáng bay bay giữa nền giấy trắng như mây ). Và tất nhiên, những cuộc điện đàm viễn liên. Giọng ông vẫn nhẹ. Aân cần và chăm sóc. Dù đối với một người đã hơn một lần phụ lòng ông. Trước đó, khi còn ở Sài Gòn, tôi thỉnh thoảng vẫn gặp ông. Đôi khi, tình cờ gặp nhau ở một chỗ bán sách cũ. Hoặc trên đường cả hai đang còng lưng đạp vội đến một địa điểm bán chữ nào đó. Chúng tôi chỉ đủ thì giờ mời nhau điếu thuốc, trao đổi nhau vài “ kinh nghiệm ... kiếm cơm “ rồi thôi. Ai cũng bát nhào với miếng cơm manh áo. Những câu chuyện văn nghệ biến mất hẳn giữa những xuôi ngược ngược xuôi của dòng sống. Một đôi khi, ông có nhẹ nhàng hỏi tôi dạo này có viết lách ca hát gì không. Tôi chỉ cười không trả lời. Ông hiểu. Nhưng tôi biết, ông vẫn có những nhóm bạn bè tụ tập đọc thơ ca hát hàng tuần. Lúc ấy, tôi hình dung ông như viên công chức già. Sáng sáng, đủng đỉnh ra quán cà phê Tàu đầu hẻm, gọi một ly bạc xỉu ( Sữa pha chút cà phê ), rồi từ tốn nhấp từng ngụm, nhìn dòng người hỗn độn những xích lô máy, những xe lam, những xe thồ túa ra khắp các nẻo đường bụi bặm. Ly sữa cạn, ông đứng dậy, đủng đỉnh hòa vào dòng người tất tả. Nói cách khác, ông không quay lưng lại cuộc sống. Nhưng ông bước vào cuộc sống với phong cách riêng của ông. Chẳng thế mà, Trần Kiêm Đoàn, trong bài Cảm Nghĩ in ở đầu tập “ Chuyện ngày xưa “ đã nhận xét : “ Thơ Như Hoa rất thật. Hầu hết bài thơ nào cũng hướng về một đối tượng cụ thể nào đó. Khung trời thơ Như Hoa là thế giới của con người chung quanh Anh...” Đôi lúc tôi thèm được cái ung dung tự tại của ông. Cái ung dung tự tại của một người thường kiềm chế được cảm xúc của mình. Tôi nói “ thường “ có nghĩa là có đôi khi ông cũng “ hơi buông thả “.Tôi tâm đắc với nhận xét của Cao Thanh Tâm “ Nếu người đọc muốn tìm trong thơ của Như Hoa Lê Quang Sinh những rung động đam mê của tình yêu thì có lẽ hơi khó, hoạ hoằn lắm mới tìm ra một bài thơ tình hiếm hoi trong tập thơ của anh như bài Đường Trăng. “ Có những buổi tinh cầu nhòa một nửa ôm con buồn ngơ ngác trộm nhìn em “ ( Đường Trăng – Như Hoa ) Oâm con buồn ngơ ngác trộm nhìn em. Thế thì buông thả lắm. Trong cái bất chợt của trời đất lúc giao mùa, ông đã không còn là ông. Nhưng tôi lại yêu ông hơn khi biết ông có những điểm ... giống tôi. Chỉ khác là kẻ ồn ào sôi nổi, người lặng lẽ âm thầm. Nhưng khi những đợt sóng ngầm thúc đẩy ông đi xa hơn nữa, thì ông không chỉ “ trộm nhìn em “ mà còn “ dám “ ngỏ lời : “ Qua lối trúc em nỡ nào chẳng ngó Anh đỉnh hồn treo lủng lẳng trái băn khoăn Em gánh nước hay gánh tình ai đó Để anh buồn quay quắt cả đường trăng “ ( Đường Trăng – Như Hoa ) Giờ đây tôi mới biết ông bạn gìa của tôi cũng có những lúc buồn quay quắt ( cả đường trăng ). Lại ... một chút tình Một chút tình của ông cho tôi và của tôi cho ông ngày xưa ( nghe như từ tiền kiếp nào ), không biết bây giờ có bớt đi chút nào không. Người Mỹ có câu : out of sight, out of mind . Xa mặt cách lòng. Giờ đây chúng tôi ở xa nhau. Rất xa. Khoảng cách không gian tính bằng đơn vị dặm ngàn. Khoảng cách thời gian là kẻ “ tri thiên mệnh “, người “ cổ lai hy “. Nhưng dường như ông vẫn còn đồng cảm được với tôi. Như ông đã đồng cảm với bao người bạn khác. Và tôi, vẫn còn giữ được ở ông một chút tình. Ông ở chốn xa xôi đô hội ấy, dẫu tuổi gìa sức yếu, vẫn hòa được vào dòng sống tha hương bằng phong cách riêng của mình. Từ tốn, chậm rãi, nhưng bền bỉ.Và ông đã tìm được ý nghĩa cuộc sống. Tôi nghĩ vậy. Còn tôi, vẫn mải mê mê mải – không phải trong dòng sống mình hằng mơ ước – mà là “ sự hội nhập “ ( một khái niệm chua xót ).Ông- người ung dung tự tại dưới con mắt tôi – vẫn tìm được cho mình những giây phút “ buồn quay quắt cả đường trăng “.Còn tôi, mười năm đốt đuốc soi rừng đi tìm một khuôn mặt mình xa lạ. Không có được một giây phút cô đơn của riêng mình. Ngày xưa, tôi thèm được cái ung dung tự tại của ông. Ngày nay, tôi lại thèm được cái “ buồn quay quắt “ của ông. Đời tôi là một cuộc rượt đuổi, có lẽ. Hay là một bi kịch điển hình của lớp tuổi năm mươi đang lênh đênh trên biển đời xứ lạ ? Tôi không biết. Nhưng tôi biết là tôi muốn viết về ông, như để thanh thản một chút tình. Nhưng hình như là tôi đang viết về thơ ông, như để tìm trong đó chút đồng cảm. Loay hoay mãi giữa mớ hỗn độn của chữ nghĩa, tôi lại hình như đang viết về tôi, như để tìm lại cái tôi đã đi lạc giữa xứ người từ 10 năm nay. Dẫu sao, ông sẽ mỉm cười độ lượng. Như ông đã từng độ lượng. Xin gởi đến ông một lần nữa mấy câu thẩn. Như những lời đồng cảm : Thi sĩ già Ngồi nặn thơ bên bờ sông lạnh Mặc đời trôi dặm đường cô quạnh Khóc oa oa. Wichita. Tháng 10/01 Trương Văn Vấn |
Chân dung những người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa - Phạm Bá Hoa
Chân dung những người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa
*****
Phạm Bá Hoa
Kính thưa quí vị,
Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hi sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hi sinh vì tổ quốc, là sự hi sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công. Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có trách nhiệm trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là sự hi sinh không kém phần cao cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được kính trọng.
Cũng trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè bằng hữu. Để rồi, những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn!
Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên bố của vị Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức, cán bộ, bỏ của chạy lấy người, tị nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tù trên khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ độc tài trên toàn cõi nước Việt Nam!
Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tị nạn, vợ chồng con cháu có cơ hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe công cộng về nhà trong màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan!
Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận, thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của nước mắt bởi chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là "dân chủ gấp trăm lần dân chủ tư bản", lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng!
Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù, còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng!
Và những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau nỗi nhục đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi chẳng còn lời để than! Nếu đem so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: "Ai đau hơn ai và ai nhục hơn ai?" Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai! Vì nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng của nó! Xin những ông chồng diểm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong cuộc kể lại:
Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo” nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gở! Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ "nhà vắng chủ". Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991.
Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng hành hạ bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ, lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi nhà. "Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!" Bà xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng bắc California từ năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003.
Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã dần xuống...... Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ. Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc...! Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó! Tình trạng bại liệt đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi Bà đã từ trần năm 2004!
Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ, tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa, mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ!
Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả!
Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”, từ Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm 1987.
Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh "Những Bà Vợ Chúng Ta", nếu không rõ nét thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy, qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây:
- Hai hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng đang chiến đấu.
- Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã!
Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt, mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm dài thật dài!
Quyển Chân Trời Dâu Bể của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và quyển Giữa Dòng Nghịch Lũ của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói:
"... Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của các anh- đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được các anh kính trọng. Và Họ, chính là Vợ của các Anh".
Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã không quá lời khi nói với nhau rằng: "Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng mình.
Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Đến ngày Việt Nam thật sự tự do dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn vòng trái đất như đã tự hứa, phải không quí vị?
Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất xứng đáng được vinh danh. Và nếu quí đồng đội và quí vị đồng hương đồng ý với tôi, chúng ta cùng nói to lên rằng:
“Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm Con”.
Vinh danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc sống thường ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn nồng đến như vậy. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên./.
Những người vợ lính thời binh lửa |
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của Cộng Sản quốc tế với đạo quân tay sai tiền kích của chúng là binh đội Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đã rất mờ nhạt đằng sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ thì hình ảnh những người chị vô danh ấy đã dần hiện rõ trong một ánh sáng diệu kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh và ngợi ca. Ðó là những người lính không có vũ khí, không số quân, không tiền lương, không cả lương thực hành quân, nhưng là những người lính tỏa hào quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngã thắt ngặt nhất, mà đã góp phần đem chiến thắng quyết định trên chiến trường. Ðó là ‘Những người vợ lính’, những người chị cao cả mà đã cùng chồng dấn mình trong cơn bão lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước cả các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai biết được. Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ phủ trên chiếc quan tài được ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ, không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy điệu ai oán. Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui rúc trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những những cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt của đêm. Ăn uống thì đạm bạc đến không có gì đạm bạc hơn được nữa. Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất nước mắm hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà có thể tìm thấy mọc đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh đồng lầy. Cả gia đình người lính Ðịa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần chung quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của mình. Không than thở, không ta thán và vui lòng với niềm hạnh phúc mong manh của mình. Một năm 365 ngày, mười năm, hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những người chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc là gì. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ì ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức nguyện cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn ra sao, thì chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy. Chị Phạm Thị Thàng, nữ anh thư đất Gò Công Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công việc nào cũng biểu hiện hình ảnh và đức tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đình, trông nom dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn. Thứ hai, khi quân giặc đã thấy dẫy đầy ngoài những vòng rào kẽm gai, thì những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đã chiến đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Ðình này thì ít nhất cũng có những chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm. Những ngày đầu tháng mười này, của 44 năm về trước, một cuộc chiến đẫm máu đã diễn ra tại đồn nghĩa quân nhỏ bé Giồng Đình, thuộc tỉnh Gò Công . Chỉ với một trung Đội nghĩa quân 24 người, và sự góp sức của nhữngngười vợ lính can trường, họ đã tử thủ để giữ đồn, trước cuộc tấn công của gần một tiểu đoàn Công Quân với vũ khí trang bị đầy đủ. Và những anh thư nữ kiệt của đất phương nam đã làm rạng danh giòng máu anh hùng, khi đóng góp cả thân xác mình để tạo nên chiến thắng thần kỳ ấy. Bình thường, các chị chỉ là người phụ nữ chân yếu tay mềm, lo việc tề gia nội trợ.Chăm sóc con cái. Nhưng khi phải đối mặt với lũ cộng quân phi nhân, tàn ác tựa sói lang, thì các chị bỗng trở nên những dũng tướng dám hy sinh cả mạng sống của mình cho sự an nguy của những người xung quanh. Như một nén hương lòng thắp muộn, CTBVDL kỳ 76 xin đọc gởi đến quý vị bài viết NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI BINH LỬA. Đã được đăng trên trang nhà KBC hải Ngoại.com để tưởng nhớ đến sự hy sinh vô cùng anh dũng của các chị ở đồn Giồng Đình nói riêng và tất cả các anh thư nữ kiệt đã từng đóng góp máu xương bảo vệ mảnh đất miền nam tụ do trong một thời gian dài. Để người dân có được những tháng ngày êm đềm hạnh phúc. Hôm nay là lần giỗ thứ 44 của các chị, gần nửa thế kỹ đã trôi qua, giờ này chắc hẳn anh linh các chị đã siêu thoát đến một cõi hằng sống nào đó.Nhưng đối với chúng tôi, những người còn mang một món nợ ân tình lớn lao đối với Những CSQLVNCH nói chung và các chị nói riêng, không bao giờ có thể quên được những tấm gương hy sinh anh dũng ấy. Và sử sanh cũng sẽ khắc ghi tuổi tên các chị cho đến ngàn đời sau. Ðêm 2 Tháng Mười 1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong một đêm Việt Cộng đã tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân số thật lớn. Ðồn Giồng Ðình thuộc tỉnh Gò Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính Cộng. Ðây là một lực lượng chính qui Việt Cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Ðình nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một Trung Ðội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và thâm độc, lực lượng Cộng quân đã bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông bà lão già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là những người “giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, thì còn từ ngữ nào, hình dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của Cộng Sản nữa không. Ðúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu Bích, đã mở cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Ðình, với sự tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, vì với quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên thì cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Ðình. Trên lý thuyết, thì giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật Cộng quân đã chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đã chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, Cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Ðình. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả lời là không, không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của các anh, mà còn là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng Ðình sẽ không thể thực hiện được, nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh. Ðồn Giồng Ðình nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh Gò Công, do một Trung Ðội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Ðồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay súng mà đã đủ, nên tất cả những người vợ lính trong đồn đều đã được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đã được nhân lên gấp đôi. Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất, những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ bò dưới lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu tìm cái sống trong khi chồng và cha của họ sắp ngã gục ngoài chiến hào. Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, thì tình trạng bên trong đồn Giồng Ðình đã khá là bi đát. Ðã có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ còn 8 Nghĩa Quân còn chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu. Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn Giồng Ðình. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một lực lượng quá đông của địch. Nhìn ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đã đã tràn vào đen ngòm như những con quái vật hung hãn. Anh Hùng chỉ còn trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt Cộng bắn vào quá gần, các em không còn khóc được nữa mà đã nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng thì thào: - Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh bò về giữ. Lô cốt mất là đồn mình mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào thì... thì... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được. Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn vợ con, rồi nhìn về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đã yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đã kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Ðồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đã xảy ra cho đồng đội. Nhưng nếu Việt Cộng chiếm được lô cốt ấy, thì coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đã hò hét ngay sát bên rồi: - Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh. Anh Hùng nhìn chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong lòng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con mình. Hai đứa nhỏ chẳng biết còn sống hay đã chết. Anh phóng mình xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái bóng đen đã quá gần. Anh Hùng đã bò vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng. Nước mắt anh rơi lã chã trên nền đất. Anh đã đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nổ giòn giã ngay sát tuyến phòng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đã điểm. Chị Thàng sẽ làm gì với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong lòng: - “Chỉ còn một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái gì sẽ xảy đến cho vợ con mình, vì dưới chân lô cốt anh tử thủ đã đông nghẹt quân giặc. Ðủ mọi thứ loại súng nổ chát chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc là mình đã nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa. Cuộc chiến đấu đã kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đã phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Ðình. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2 Tháng Mười 1965. Tình hình đã quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, quyết định thà hy sinh còn hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn: - Hãy bắn lên đầu chúng tôi! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đã thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hãy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt Cộng đông lắm. Bắn đi... bắn... Sau tiếng gọi thống thiết của người Ðồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu Gò Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu giẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lỗ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa tiếng súng nổ giòn, dường như người ta nghe âm thanh rì rì của máy bay. Không Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đã xuất kích. Ðến đây thì Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đã có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Ðình đã đánh dấu chấm hết, với phần thắn nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch đã kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối. Khi ánh hừng đông của một ngày mới đã lên, hai Ðại Ðội Ðịa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng Gò Công chỉ huy đã đến và tổ chức bung quân ra lục soát. Quân Cộng đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Ðồn Trưởng Thi, Ðồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đã kháng cự mãnh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt Cộng này mang trên mình rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này. Anh Thi và anh Hùng đã bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên Cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt Cộng bắt đi tải thương lén trốn về được đã cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính Cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn? Vì nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết vì nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt Cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục của thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu. Ðó là lý do giải thích tại sao sau ngày 30 Tháng Tư 1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế binh Cộng Sản trên đường phố. Nhưng đối với anh Hùng, thì tất cả những gì mà Việt Cộng đã trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt, quân Cộng đã rút đi, thì anh đã như một người điên lao mình ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đã một mình một súng trấn giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng bò vào khúc hào mà anh đã nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt Cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ thì chị Thàng cũng đi vào cõi chết, vì chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh chờ cho những tên Việt Cộng nhào vào, chị rút chốt. Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đã được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào lòng và gần như ngất xỉu. Nhưng khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngổn ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của mình, anh Hùng thấy trong lòng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đã cứu sống được tất cả những thương binh. Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đã đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Ðình. Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, thì chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Ðình đều sẽ chết hết. Anh Hùng ẵm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người còn sống, những người vợ lính khác đã gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẻo chiến trường, chị Thạch Thị Ðịnh, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta, những công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xã hội, nhưng là những người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người lính từ miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù miền Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia đình. Nếu anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, thì anh mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. Còn nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, thì anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đã sinh ra anh. Ðầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đã không thể chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đã nai nịt tề chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn bò lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn dò đường. Ðêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lỗ nào là thảy lựu đạn vô cái lỗ đó, vì ở đó chính là cái miệng hầm chốt của địch. Ðến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đã reo hò trương Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đã trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của những người lính trận. Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt thòi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui lòng với những gì mình có. Một góc hầm tối tăm, một chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái chén sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của những người vợ lính. Chị Thàng đã chết đi, anh linh của chị cùng hai cháu bé đã thăng thiên lên cõi vĩnh hằng, nhưng những người còn sống cùng thời với chị, cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên tên chị. “Người chị cao cả Phạm Thị Thàng”. Vì tên chị đã được trân trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam chống Cộng Sản quốc tế và Hà Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và của lịch sử hình thành nhân con người. Vô danh www.kbchaingoai.net ---o0o--- Một Chút Tình Cho... Kẻo mai này ... Tôi biết ông từ những năm 70s. Lúc ấy chúng tôi đang ở trại cải tạo Vĩnh Quang thuộc tỉnh Vĩnh Phú, vùng trung du nổi tiếng với những đồi trà bát ngát và dãy núi Tam đảo. Ông ở đội 14 Nông nghiệp gồm phần lớn các sĩ quan cấp tá. Tôi ở đội 8 Nông nghiệp kiêm Văn nghệ gồm phần lớn sĩ quan cấp uý. Năm ấy, ông ở vào khoảng tuổi “ tri thiên mệnh “. Nay ông đã “ thất thập cổ lai hy “. Năm ấy, tôi vẫn còn “ nhi lập “, mà nay đã là “ tri thiên mệnh “. Thời gian như bóng câu. Thấm thoát đã hơn 20 năm. Dài hơn cả quãng đời 15 năm lưu lạc của nàng Kiều. Thế mà đã 20 năm rồi ư ? Tôi ngậm ngùi tự hỏi khi cầm tập thơ “ Chuyện ngày xưa “ ông gởi tặng. Tôi có một thói quen. Khi cầm một quyển sách hoặc tờ tạp chí, tôi chỉ thoáng lướt qua tờ bìa hoặc trang nhất, rồi lật ngay qua bìa sau hoặc trang cuối. Đoạn trích bài tựa in ở bìa sau tập thơ làm tôi bùi ngùi : “ Cuộc đời phù du dâu bể, vật chất phù vân sớm về tối đi, phải chăng chỉ còn lại chút tình cho người, cho ta…” Tôi nhắm mắt lại. Thoáng trong trí tôi một câu văn đọc đâu đó. Đại ý về những ngày xa xưa thật xưa. Người viết muốn được ai đó cầm bút ghi lại. Kẻo mai này … trí nhớ tiêu hao. Kẻo mai này trí nhớ tiêu hao. Ôi kiếp người còm cõi. Suốt đời là một kiếp tha hương. Bao nhiêu năm lưu đầy quê nhà và còn bao nhiêu năm nữa lưu đầy quê người. Có vui chăng chỉ là một chút tình cho người … cho ta … để : “ Mơ thấy dáng em tuổi dậy thì Gío xuân tha thướt tà áo Việt E lòng còn nặng cánh chia ly.” ( Tết Ca Li – Như Hoa ) E lòng còn nặng cánh chia ly Tháng 5 năm 1982, phần lớn tù cải tạo trại Vĩnh Quang được chuyển vào Xuân Lộc , Long Khánh. Tại trại Z30A Xuân Lộc, tôi may mắn được biên chế ở cùng phòng, cùng đội và nằm cách ông một người tù già khác. Dù đã biết ông từ khi còn ở ngoài Bắc, nhưng chỉ đến lúc này, tôi mới biết rõ hơn về ông. Bên dưới dáng người mỏng tanh, miệng như lúc nào cũng sẵn nụ cười, chân bước thấp bước cao ( dạo ấy ông bị bệnh thần kinh tọa ) là một trái tim rất văn nghệ. Đêm thứ bảy nào, sau khi buồng giam đã tắt đèn và mọi người đã vào nằm trong mùng, tôi đều đàn và hát cho đến rất khuya. Sợ làm khó chịu các anh em không thích nghe nhạc hoặc chê tôi hát dở, tôi đàn rất nhẹ và hát rất khẽ. Nhưng giữa đêm khuya của rừng núi, tiếng đàn hát dù nhỏ và nhẹ cách mấy, cũng đều nghe rõ mồn một, ( và dù có dở cách mấy ), cũng đều gây một cảm giác ngậm ngùi. Nhất là với những người tù không biết ngày về như anh em chúng tôi. Dần dà, đã thành một thói quen. Tối thứ bảy, tôi thức khuya đàn hát. Các anh em cùng phòng thức để nghe ( hôm sau chủ nhật, mọi người được nghỉ lao động ). Những bài hát về thân phận con người. Về những mối tình tan vỡ. Về một kiếp lưu đầy. Người cuối cùng thức với tôi mỗi tối thứ bảy là ông. Sở dĩ tôi biết được là vì tiếng ông đằng hắng. Rất nhẹ và mong manh. Rồi từ từ, một cách rất khiêm tốn, ông cũng tham gia hát. Những bài hát Mỹ của thập niên 50s. Qua ông , tôi được biết bài Tennessy Waltz bất hủ. Sau này, tôi đã viết lời Việt cho bài hát và dùng để tán người sẽ là mẹ của các con tôi. Giọng hát ông, cũng như thơ ông, cũng như con người ông, nhẹ nhàng chứa chan tình cảm. Thứ tình cảm không sôi nổi nhưng rất dịu dàng. Ông kể cho tôi nghe về những ngày ông du học tại Mỹ. Về bài thơ “ Gĩa từ Monterey “, với cuộc chia tay người tình bản xứ không biết bao giờ gặp lại. Cuộc chia tay ấy hẳn phải là u uất nặng nề lắm. Nhưng không, những câu thơ thật nhẹ, thật mong manh : “ Hè Monterey tôi từ biệt nàng Cuối đường Fremont chạy dài ra bể. Nàng hỏi, chiến tranh khi nào dứt ? Tôi đáp, không nói được tương lai Tôi hỏi, tình ta khi nào thôi ? Nàng nhìn tôi Đôi mắt xanh biếc Chẳng nói ( Gĩa từ Monterey – Như Hoa ) Ông viết bài thơ này vào tháng 4 năm 1974 tại Monterey. Ông không biết rằng, chỉ đúng một năm sau thôi, là chiến tranh sẽ chấm dứt ( một cách tức tưởi ). Và ông sẽ bị ném vào trại cải tạo. Và chân ông sẽ bước thấp bước cao, không phải ở“ cuối đường Fremont chạy dài ra bể “, mà là trên khắp các nẻo đường quê hương, với : “ Mùa đông gío rít lạnh Nắng hè cháy thịt da Đất cày lên sỏi đá Khoai sắn chẳng no lòng “ ( Mảnh đất tình quê – Như Hoa ) Tôi chợt nhớ những đồi trà mênh mông dưới chân rặng Tam Đảo. Tôi chợt nhớ những đồi khoai mì bát ngát bao bọc lấy khu trại Vĩnh Quang. Những buổi chiều cuốc đất trên đồi vời trông về một miền cố hương xa tít. Thèm một bữa ăn no. Thèm một chén trà nóng. Thèm một đôi bàn tay mềm mại. Chỉ cầm thôi để nghe mềm nhũn cả châu thân. Trời cuối tháng mười se se lạnh. Thỉnh thoảng những cơn mưa nhẹ chỉ đủ làm ướt áo. Tấm áo vá của muôn ngàn nỗi đau. Ôi mùa thu đất Bắc. Đẹp biết bao trong văn thơ hoài cổ nhưng cũng ảm đạm biết bao cho những thân phận lưu đầy. Nhưng ở ông, những điều tưởng chừng như sẽ để lại vết hằn rất sâu trong tâm hồn nhậy cảm của ông, lại được hóa giải một cách rất nhẹ nhàng, như nụ cười ông, như giọng nói ông : “ Vận nước nổi trôi Chí trai không tròn Tôi đi tù Mẹ gìa không nơi nương tựa. “ ( Mẹ tôi – Như Hoa ) Thời gian tôi gần gủi ông cũng vài năm. Nhưng trong trí nhớ còm cõi của tôi, tôi không moi ra được cái hình dung về khuôn mặt ông lúc giận dữ. Dù rằng, tôi biết ông có nhiều điều để giận dữ. Tôi chỉ còn nhớ được nụ cười hiền và nét đăm chiêu. Tuy ông là người lúc nào cũng cười, dù trong những năm tháng đáng khóc nhất, nhưng ông lại ngạc nhiên khi thấy người con gái yêu của mình lúc nào cũng … cười : “ Đói khổ và bất hạnh Cớ sao cô lại cười Nào ai trả lời đặng Riêng chỉ nàng biết thôi. “ ( Nụ cười – Như Hoa ) Một chút tình ... “ Cuộc đời phù du dâu bể, vật chất phù vân sớm về tối đi ... “ Hay nói một cách khác, cuộc đời vốn bấp bênh. Mới đó mà đã mất tăm. Mới đó mà đã biền biệt. Còn chút tình nào cho nhau, xin hãy cho ngay hôm nay. Đừng nấn ná chờ đợi. Kẻo đến một lúc nào đó ... qúa muộn. Tuổi ông đang mấp mé bên bờ tử biệt. Mà hình như tôi cũng vậy. Nào ai biết được, khi buổi sáng thức dậy không còn biết trước hiên nhà có vuông nắng ngọt ngào, nhìn thấy mà thèm sống đến muốn ... chết được. Hay một buổi sáng không còn thức dậy được nữa. Mà đã lặng lẽ một mình về cõi quạnh hiu. Cái bến bờ hiu quạnh ấy ai cũng sẽ một lần qua, nhưng bởi không biết bao gìờ nên cuộc đời này vẫn còn được chút niềm vui. Đã gần 10 năm nay, kể từ khi qua Mỹ định cư, tôi không gặp lại ông. Sự liên lạc giũa chúng tôi chỉ là những trang thư ( mà phần lớn là ông viết. Nét chữ viết tay phóng khoáng bay bay giữa nền giấy trắng như mây ). Và tất nhiên, những cuộc điện đàm viễn liên. Giọng ông vẫn nhẹ. Aân cần và chăm sóc. Dù đối với một người đã hơn một lần phụ lòng ông. Trước đó, khi còn ở Sài Gòn, tôi thỉnh thoảng vẫn gặp ông. Đôi khi, tình cờ gặp nhau ở một chỗ bán sách cũ. Hoặc trên đường cả hai đang còng lưng đạp vội đến một địa điểm bán chữ nào đó. Chúng tôi chỉ đủ thì giờ mời nhau điếu thuốc, trao đổi nhau vài “ kinh nghiệm ... kiếm cơm “ rồi thôi. Ai cũng bát nhào với miếng cơm manh áo. Những câu chuyện văn nghệ biến mất hẳn giữa những xuôi ngược ngược xuôi của dòng sống. Một đôi khi, ông có nhẹ nhàng hỏi tôi dạo này có viết lách ca hát gì không. Tôi chỉ cười không trả lời. Ông hiểu. Nhưng tôi biết, ông vẫn có những nhóm bạn bè tụ tập đọc thơ ca hát hàng tuần. Lúc ấy, tôi hình dung ông như viên công chức già. Sáng sáng, đủng đỉnh ra quán cà phê Tàu đầu hẻm, gọi một ly bạc xỉu ( Sữa pha chút cà phê ), rồi từ tốn nhấp từng ngụm, nhìn dòng người hỗn độn những xích lô máy, những xe lam, những xe thồ túa ra khắp các nẻo đường bụi bặm. Ly sữa cạn, ông đứng dậy, đủng đỉnh hòa vào dòng người tất tả. Nói cách khác, ông không quay lưng lại cuộc sống. Nhưng ông bước vào cuộc sống với phong cách riêng của ông. Chẳng thế mà, Trần Kiêm Đoàn, trong bài Cảm Nghĩ in ở đầu tập “ Chuyện ngày xưa “ đã nhận xét : “ Thơ Như Hoa rất thật. Hầu hết bài thơ nào cũng hướng về một đối tượng cụ thể nào đó. Khung trời thơ Như Hoa là thế giới của con người chung quanh Anh...” Đôi lúc tôi thèm được cái ung dung tự tại của ông. Cái ung dung tự tại của một người thường kiềm chế được cảm xúc của mình. Tôi nói “ thường “ có nghĩa là có đôi khi ông cũng “ hơi buông thả “.Tôi tâm đắc với nhận xét của Cao Thanh Tâm “ Nếu người đọc muốn tìm trong thơ của Như Hoa Lê Quang Sinh những rung động đam mê của tình yêu thì có lẽ hơi khó, hoạ hoằn lắm mới tìm ra một bài thơ tình hiếm hoi trong tập thơ của anh như bài Đường Trăng. “ Có những buổi tinh cầu nhòa một nửa ôm con buồn ngơ ngác trộm nhìn em “ ( Đường Trăng – Như Hoa ) Oâm con buồn ngơ ngác trộm nhìn em. Thế thì buông thả lắm. Trong cái bất chợt của trời đất lúc giao mùa, ông đã không còn là ông. Nhưng tôi lại yêu ông hơn khi biết ông có những điểm ... giống tôi. Chỉ khác là kẻ ồn ào sôi nổi, người lặng lẽ âm thầm. Nhưng khi những đợt sóng ngầm thúc đẩy ông đi xa hơn nữa, thì ông không chỉ “ trộm nhìn em “ mà còn “ dám “ ngỏ lời : “ Qua lối trúc em nỡ nào chẳng ngó Anh đỉnh hồn treo lủng lẳng trái băn khoăn Em gánh nước hay gánh tình ai đó Để anh buồn quay quắt cả đường trăng “ ( Đường Trăng – Như Hoa ) Giờ đây tôi mới biết ông bạn gìa của tôi cũng có những lúc buồn quay quắt ( cả đường trăng ). Lại ... một chút tình Một chút tình của ông cho tôi và của tôi cho ông ngày xưa ( nghe như từ tiền kiếp nào ), không biết bây giờ có bớt đi chút nào không. Người Mỹ có câu : out of sight, out of mind . Xa mặt cách lòng. Giờ đây chúng tôi ở xa nhau. Rất xa. Khoảng cách không gian tính bằng đơn vị dặm ngàn. Khoảng cách thời gian là kẻ “ tri thiên mệnh “, người “ cổ lai hy “. Nhưng dường như ông vẫn còn đồng cảm được với tôi. Như ông đã đồng cảm với bao người bạn khác. Và tôi, vẫn còn giữ được ở ông một chút tình. Ông ở chốn xa xôi đô hội ấy, dẫu tuổi gìa sức yếu, vẫn hòa được vào dòng sống tha hương bằng phong cách riêng của mình. Từ tốn, chậm rãi, nhưng bền bỉ.Và ông đã tìm được ý nghĩa cuộc sống. Tôi nghĩ vậy. Còn tôi, vẫn mải mê mê mải – không phải trong dòng sống mình hằng mơ ước – mà là “ sự hội nhập “ ( một khái niệm chua xót ).Ông- người ung dung tự tại dưới con mắt tôi – vẫn tìm được cho mình những giây phút “ buồn quay quắt cả đường trăng “.Còn tôi, mười năm đốt đuốc soi rừng đi tìm một khuôn mặt mình xa lạ. Không có được một giây phút cô đơn của riêng mình. Ngày xưa, tôi thèm được cái ung dung tự tại của ông. Ngày nay, tôi lại thèm được cái “ buồn quay quắt “ của ông. Đời tôi là một cuộc rượt đuổi, có lẽ. Hay là một bi kịch điển hình của lớp tuổi năm mươi đang lênh đênh trên biển đời xứ lạ ? Tôi không biết. Nhưng tôi biết là tôi muốn viết về ông, như để thanh thản một chút tình. Nhưng hình như là tôi đang viết về thơ ông, như để tìm trong đó chút đồng cảm. Loay hoay mãi giữa mớ hỗn độn của chữ nghĩa, tôi lại hình như đang viết về tôi, như để tìm lại cái tôi đã đi lạc giữa xứ người từ 10 năm nay. Dẫu sao, ông sẽ mỉm cười độ lượng. Như ông đã từng độ lượng. Xin gởi đến ông một lần nữa mấy câu thẩn. Như những lời đồng cảm : Thi sĩ già Ngồi nặn thơ bên bờ sông lạnh Mặc đời trôi dặm đường cô quạnh Khóc oa oa. Wichita. Tháng 10/01 Trương Văn Vấn |