Monday, April 19, 2010

cố Trung Tá Trần Lam Thanh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh

Kính thưa quý Diễn Đàn
Tôi xin phép được chuyển Bức Thư của tác gỉa Nguyễn Bửu Thoại lên các Diễn Đàn. Với mong ước gia đình hoặc thân hữu của cố Trung Tá Trần Lam Thanh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, hy sinh tại chiến trường Cần Thơ . Nhận được thư này và liên lạc với tác gỉa Nguyễn Bửu Thoại. Trân trọng kính chuyển với lòng tri ân và Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Trần Hữu Phái
(ĐNQ)


BỨC THƯ THAY LỜI TỰA

"Chị Thanh * và các cháu,

Dù rất mong manh, tôi cũng đặt nhiều hy vọng chị và các cháu đọc được những dòng chữ này, những dòng chữ mà trong suốt hơn ba mươi năm qua, tôi nhiều lần cầm viết; muốn viết mà viết hoài không xong.

"Viết hoài không xong" vì tôi không muốn gợi lại một nỗi đau xót tột cùng trong lòng chị và các cháu. Cái gì quên được, nên để chị quên. Nhưng cho đến một ngày nào mà, câu chuyện về cái chết của anh, một cái chết hào hùng, rất xứng đáng để được vinh danh như bao nhiêu cái chết liệt oanh khác, chưa kể ra hết được thì nỗi cay đắng, xót xa vẫn còn ray rứt trong lòng tôi.

Phân nửa nước Việt Nam nhỏ và hẹp, vậy mà kể từ ngày anh mất, tôi chưa lần nào gặp lại chị và các cháu.... Tôi biết, vài tháng sau đó chị từ Nha Trang có trở vào Hậu Cứ Tiểu Đoàn ở Sóc Trăng để thu xếp công việc và một ít đồ đạc còn lại. Nhưng lúc ấy, Tiểu Đoàn đã di chuyển vô vùng xa!

Đầu năm 1969, sau khi thụ huấn khóa Tác Chiến Trong Rừng (J.W.S) tại Mã Lai về, tôi được tăng phái làm Huấn Luyện Viên tại Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Trong khoảng thời gian nầy, tôi có ra Nha Trang hai lần với chủ tâm tìm thăm chị, thăm các cháu và viếng mộ anh! Nhưng rất tiếc, không lần nào tôi thực hiện được ý định vì thành phố Nha Trang thì lớn mà chỗ ở của gia đình chị, tôi chỉ nhớ lờ mờ theo lời kể của anh hồi còn ở đơn vị, mỗi khi anh có dịp nói về nơi chôn nhau, cắt rốn của mình!

Chị Thanh,

Viết về Anh, tôi không hề có ý định kể lể theo cái kiểu: con cá sẩy là con cá to, món đồ vỡ là món đồ cổ, người đã hy sinh là một vĩ nhân, một đại anh hùng. Không! Tôi không hề có ý như vậy và tôi biết, trong chỗ sâu thẳm của cõi lòng, cõi lòng một người chiến sĩ bình thường, giản dị, anh Thanh cũng không hề ao ước như vậy. Do đó, tôi chỉ muốn kể lại một câu chuyện, đúng hơn, câu nói, câu nói "gở", của anh trong một trận đánh lớn, trước ngày anh gục ngã có mấy hôm thôi! Một câu nói ám ảnh tôi suốt cuộc chiến còn lại và đeo đuổi tôi trong suốt những năm tù đày "cải tạo".

Hôm ấy, Tiểu Đoàn hành quân cấp Trung Đoàn, tại vùng Thuận Nhơn bằng trực thăng vận, sau khi B.52 cày nát khu vực đổ quân. Tiểu Đoàn chúng ta được đổ ở bờ Bắc; Tiểu Đoàn 1/33 bờ Nam của Rạch Trà Ết.

Cả hai Tiểu Đoàn chạm mục tiêu lúc 10:00 giờ sáng. Chúng tôi tiến chậm, lục soát rất kỹ. Ít khi chúng tôi thấy B.52 đánh một cú tuyệt vời như vậy: Nhiều xác VC bị bẹp dúm trong hầm hố cá nhân, hố cộng đồng, vì sức ép của bom, mà những vệt máu trên khóe miệng chúng, cơ hồ chưa kịp khô. Với hiện tượng này, chắc chắn địch còn lảng vảng quanh đây!

Và, quả đúng như vậy: Bên bờ Nam, Thiếu Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/33, vừa lên máy báo tịch thu được hai khẩu sơn pháo 75ly! Cùng lúc, ở bờ Bắc, đứa con đầu của Tiểu Đoàn mình cũng báo về: vừa nhận được món quà gồm một khẩu bích kích pháo 82ly và sáu khẩu AK47. Món quà rất lý thú vì địch đã để sẵn lên một chiếc xuồng bơi, có lẽ đang di chuyển thì bi. B.52. Rụng rời, "bỏ súng chạy lấy người", nhưng chắc chạy chưa xa!

Quả là chúng tôi không cần chờ lâu...! Không đầy năm phút sau, súng nổ rộ cả hai bờ sông: hai Tiểu Đoàn đều bị đánh chận đầu!

Hỏa lực địch rất mạnh, mạnh đến độ nhiều lúc tôi nghĩ chúng muốn xung phong để lấy lại vũ khí đã mất. Suốt mấy giờ liền, Tiểu Đoàn không tiến thêm được bước nào, sau khi đánh bật được tuyến đầu của địch, gây cho chúng thêm một số thương vong, thu được mấy khẩu AK, trong đợt xung phong đầu tiên! Nhưng Đại Đội 1 cũng trả giá bằng năm quân nhân bị thương trong đó có Chuẩn Úy Vân!

Thiếu Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Sư Đoàn bay C&C đến thanh sát mục tiêu, đánh giá địch tình. Tiểu Đoàn ta được lệnh dừng lại bố trí chờ không yểm, tải thương, và quân viện!

Đã hơn năm giờ chiều! Chưa thấy quân viện và cũng chưa được tản thương, Thiếu Tá và tôi bò lên thanh sát tuyến đầu của hai đại đội. Tuyến bố trí rất tốt! Thiếu Tá hun đúc tinh thần anh em và chỉ thị cho hai ông Đại Đội Trưởng, cho anh em thay phiên nhau vừa gác giặc, vừa ăn chiều. Có thể ta phải qua đêm tại đây trong tình trạng này.

Trời nhá nhem tối, bữa cơm chiều diễn ra dưới cái hố cạn, cái hố anh em vừa đào vì địch vẫn còn đang tác xạ trên đầu. Thiếu Tá và tôi ăn sau cùng. Dân trao cho chúng tôi mỗi người một dĩa cơm trắng, vài cái hột vịt lạt và mấy con tép rang mặn. Hai chúng tôi ăn... bóc ngon lành. Thấy bàn tay Thiếu Tá dính đầy cơm, ông phải dùng lưỡi... liếm, tôi phì cười bảo Dân:
- Anh lấy cho Thiếu Tá cái muỗng! Nếu quên đem, thì lục ở ba lô tôi.
Dân nhanh nhẩu:
- Em có chứ. Để em đi lấy!
- Thôi, Thiếu Tá xua tay bảo Dân, rồi nhìn tôi ông nói nhỏ, chậm rãi vừa đủ nghe:
- Hai anh em mình không biết có còn sống đến sáng mai hay không, muỗng với nĩa làm gì cho mất công... rửa!

Trong một hoàn cảnh khác, đây là câu nói đùa, nhưng trong tình huống này, tình huống từng chập Đại Đội 1 và 3 báo về số thương vong vẫn tiếp tục xảy ra cho ta, tôi không nghĩ như vậy! Ông nói với một giọng đều đều bình thản, không bi quan, không lạc quan, không nghiêm chỉnh, cũng không pha trò.... Đây là một ám ảnh sâu thẳm trong thâm tâm người lính chiến. Ám ảnh chỉ xuất hiện bất ngờ và bất chợt trong những trạng huống đặc biệt mà thôi. Người quân nhân tác chiến dù gan lì, bất kể hiểm nguy, dù thường xuyên đối diện và thách đố với tử thần, thì sau lưng họ, vẫn luôn là hình ảnh người vợ trẻ, là bóng dáng những đứa con thơ, thân thương, gần gũi, và ám ảnh. Nỗi ám ảnh không giống với nỗi hãi sợ.

Vắt cơm đang nuốt, tự nhiên nghẹn ở cổ họng tôi!

Tôi biết anh không sợ chết, tôi không sợ chết, và tất cả anh em chúng tôi ở đây không ai hề biết hai chữ "sợ chết" là cái quái gì! Dĩ nhiên, cũng không ai mang bệnh tâm thần, để vô cớ, xổng lưng đi tìm chỗ... chết.

Người chiến binh ở tuyến đầu không hề bị mê hoặc bởi câu triết lý trong sách vỡ: "Có cái chết nặng như núi Thái Sơn, cũng có cái chết nhẹ tựa lông hồng." Đối với chúng tôi, cái chết nào cũng giống cái chết nào, không nặng, không nhẹ; không là Thái Sơn, cũng chẳng lông hồng. Nhưng, chết cho Tổ Quốc là cái chết vinh quang, bất kể ai là người đang nhân danh Tổ Quốc! Quan tài người lính trận luôn luôn được phủ bằng lá Quốc Kỳ, bất kể lá Quốc Kỳ đó nhiều khi đang bị một vài cá nhân, một vài tập thể bất xứng, nhân danh và lợi dụng.

Cho nên... Thưa Chị,

Cái chết của anh là sự hy sinh cực kỳ cao quý và xứng đáng! Anh chết trong tư thế đầu ngẩng cao, mắt hướng thẳng vào đối phương! Viên đạn kết thúc đời anh là viên đạn đi từ trước mặt trổ ra sau ót! Gương hy sinh của anh, nếu không hơn thì cũng bằng bao nhiêu gương hy sinh đã và đang được ca tụng trong nền Văn Học và Ca Nhạc ở miền Nam trước 75 và tại hải ngoại sau này.

Vậy mà từ hơn 30 năm qua, tôi chưa hề đọc được một bài viết, chưa hề nghe một bản nhạc nào đề cập đến cái chết hào hùng đó! Phải chăng, sự nằm xuống của anh không mang lại vòng hoa của chiến thắng? Sự gục ngã của anh không kết tụ được hào quang của chiến công? Hay là, tại vì anh đã nằm xuống ở một địa danh miền Tây hẻo lánh quê mùa, một địa danh chưa có tên gọi trong chiến sử? Anh chết ở cái ... vũng trâu nằm?

Mỗi lần nghĩ về anh, lòng tôi tràn dâng sự kính phục, kính phục trong cay đắng xót xa! Nhưng tôi vốn bất tài, bất lực, không là nhà văn, cũng chẳng phải nhạc sĩ, nên chưa cho ra đời được câu văn, nốt nhạc nào nói đúng, nói đủ về anh. Hơn ba mươi năm trăn trở ray rứt, hôm nay mới viết được trơn tru mấy dòng này, gọi là gom góp một chút gì vốn "của César, xin trả lại cho César."

Đây là "Một Bài Ca Cho Anh" mà người "nhạc sĩ" vụng về kém cỏi như tôi có thể sáng tác được!

Ước mong những dòng chữ này không tạo thành cơn gió bão thổi dậy lớp tro tàn của dĩ vãng, đã nằm yên trong lòng chị và các cháu, trên 30 năm trời, khoảng thời gian đủ để biến một cậu bé lên năm, lên bảy ngày nào, thành một trung niên ở tuổi dạn dày; biến một thiếu phụ trong thời xuân sắc, thành một góa phụ tuổi đã ngã về chiều!

Sự mất mát to lớn của gia đình chị và của hằng ngàn, hằng vạn gia đình Việt Nam khác trong cuộc chiến vừa qua, lấy gì để trang trải, lấy gì để bù trừ?

Xin hỏi thử những ai đã từng "nhân danh" này, đã từng "thay mặt" nọ, trong các buổi lễ tang; đứng trước sự mất mát chia lìa, đứng trước vành khăn trắng trên đầu người vợ trẻ, trên vầng trán đứa con thơ, có một lần nào tự vấn lương tâm rằng: trong suốt cuộc chiến tranh máu lửa vừa qua, bản thân mình, gia đình mình, phe đảng mình... có sống một đời sống thực sự xứng đáng, không tủi thẹn với lương tâm, không tủi thẹn với những cái mà mình đã từng nhân danh, mình đã từng kêu gọi tha nhân, hy sinh đóng góp cho mình, cho gia đình mình, cho phe cánh mình... an nhiên hưởng thụ trên máu xương đau thương của người khác, hay chưa?

Hơn hai mươi năm sau cuộc chiến, câu hỏi giờ đây lần lượt đã được trả lời. Và lịch sử đã bắt đầu ghi chép những câu trả lời đó vào những trang rất trang trọng! Lịch sử vô tư và công bằng, sẽ sắp người và việc đứng ở những nấc thang đích thực là vị trí của họ. Chắn chắn chị và các cháu sẽ được đọc, được xem để tự hào rằng anh Thanh và bao nhiêu chiến sĩ khác đã nằm xuống cho tất cả chúng ta, cho tiền đồ của dân tộc Việt Nam, mặc dù, một phần của cái tiền đồ đó, hiện nay đang lênh đênh trôi giạt khắp quả địa cầu...!

Trong cõi u-minh, "hờn ghen buổi ấy, hiển linh bây giờ", xin anh mãi mãi an ủi, chở che cho chị, cho các cháu!
Houston, ngày 10 tháng 6 năm 1998
Nguyễn Bửu thoại.

* Chị Thanh tức Phu Nhân của cố Trung Tá Trần Lam Thanh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, hy sinh tại chiến trường Cần Thơ
, trong một trận đánh mà Tiểu Đoàn 2/33 bị hơn một Trung Đoàn địch phục kích tai bờ Rạch Ông Cửu thuộc Quận Cái Răng, Tỉnh Phong Dinh ngày 10 tháng 6 năm 1968. (Người viết lúc bấy giờ là Sĩ Quan Ban 3 Tiểu Đoàn.)