Quang Trung Hoàng Đế, Anh Hùng Dân Tộc, Nhà Cách Mạng Thời Đại, Thiên Tài Quân Sự và Chính Trị
Thiện Ý:
Hàng năm vào dịp năm hết Tết đến, người Việt hải ngoại ngoài việc chuẩn bị đón Xuân vui Tết cổ truyền dân tộc nơi quê người, thường vẫn giữ truyền thống tổ chức lễ kỷ niệm các trận đánh thắng lịch sử của vua Quang Trung chống quân xâm lược Phương Bắc. Là vì các trận đánh thắng này đã diễn ra vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, cũng vào những ngày Tết. Và vì thắng lợi lịch sử này do tài điều binh khiển tướng, mưu lược của một vì vua xuất thân từ hàng dân giả đất Bình Định – Qui Nhơn: Nguyễn Huệ – Quang Trung. Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận chiến thắng lịch sử ấy bằng bảy chữ đậm nét: “Vua Quang Trung Ðại Phá Quân Thanh”, với các trận đánh Hà Hồi, Ngọc Hồi… làm quân xâm lược kinh hồn bạt vía, tướng sĩ đa phần bỏ thây nơi chiến địa, Thống soái Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín chạy thoát thân về Tàu!
Sử gia Trần Trọng Kim viết: “Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên đán trước, để đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng thì vào thành Thăng long mở tiệc ăn mừng. Ðoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển…”, và kết cuộc “… Tôn sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáp, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị hà đầy những thây người chết…“(1)
Ðọc lại những trang sử của sử gia Trần Trọng Kim viết về “Nhà Tây Sơn” (1788-1802), có lẽ nhiều người sẽ có chung nhận định với chúng tôi về Nguyễn Huệ – Quang Trung: Nhà cách mạng thời đại, một thiên tài quân sự và chính trị, một đại anh hùng dân tộc. Ðây có lẽ không phải là nhận định mới mẻ gì, vì trước chúng tôi, đã có nhiều người viết về Nguyễn Huệ – Quang Trung như thế. Nhưng dẫu sao, với thành tâm tưởng nhớ công lao tiền nhân với lòng tự hào về những công trạng mà vua Quang Trung đã làm trong lịch sử dân tộc, chúng tôi vẫn viết lại những suy nghĩ của mình, có thể chỉ là sự lặp lại ý tưởng của người khác.
I.-HOÀNG ÐẾ QUANG TRUNG: NHÀ CÁCH MẠNG THỜI ÐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM
Là nhà cách mạng thời đại phong kiến Việt Nam, vì người thanh niên Nguyễn Huệ đất Bình Định – Qui Nhơn, với ba mươi sáu tuổi đời, với lòng yêu nước thương dân, đã dám có hành động vượt ra khỏi các luật tắc ý thức hệ phong kiến, chấp nhận hệ quả “Ðược làm vua, thua làm giặc”. Hệ quả là hành động cách mạng của Nguyễn Huệ vì có chính nghĩa nên đã “Ðược làm vua” trăm họ và trở thành Hoàng đế Quang Trung.
Thực vậy, trong bối cảnh một chế độ quân chủ chuyên chế, luật tắc ý thức hệ phong kiến là Tam cương (Quân-thần, phu-phụ và phụ-tử) trong đó đạo vua-tôi là trọng hơn cả. Ðạo này xây dựng trên quan niệm thần quyền, coi vua là con Trời (Thiên tử) thay Trời trị dân. Quyền cai trị này cha truyền con nối (Con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa vẫn quét lá đa). Thần dân có bổn phận phục tùng và trung thành với vua, coi vua là biểu tượng quốc gia, trung thành với vua là yêu nước (Trung quân ái quốc), chống lại vua là phản nghịch. Do đó, một trung thần khi phải chết theo vua, vua bảo chết là phải chết, nếu không là bất trung (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung)…
Những luật tắc phong kiến vừa kể đã ăn sâu vào não trạng người dân và chi phối toàn xã hội. Vậy mà một thanh niên gốc nông dân như Nguyễn Huệ, dù không xuất thân từ “Cửa Khổng sân Trình”, cũng biết rõ hậu quả ghê gớm của hành vi chống lại vương quyền, song đã làm một việc ít ai dám làm. Nguyễn Huệ quả là một nhà cách mạng của thời đại phong kiến. Cuộc cách mạng của Nguyễn Huệ đã thành công vì có chính nghĩa (chống ngoại xâm), tụ nghĩa được nhiều nhân tài và nhân dân ủng hộ. Chính nhờ chính nghĩa mà việc lên ngôi Hoàng đế (Quang Trung) của Nguyễn Huệ trở thành chính danh, mở ra một triều đại mới trong lịch sử Việt Nam, Triều đại Nhà Tây Sơn. Về điểm này, sử gia Trần Trọng Kim, sau khi ghi lại việc vua Lê Chiêu Thống và Hoàng Thái hậu cầu cứu quân Thanh và mật dụ của nhà Thanh nhân cơ hội này cướp nước ta, ông viết:”… Vậy nước đã mất, thì phải lấy lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Ðế, truyền hịch đi khắp nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy…” và ông kết luận “Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo?” (2)
II.-HOÀNG ÐẾ QUANG TRUNG: THIÊN TÀI QUÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ
1.- THIÊN TÀI QUÂN SỰ:
Là vì khi khởi nghiệp, Nguyễn Huệ chỉ là một người dân mặc áo vải, chưa hề được đào tạo từ một trường quân sự hay có kinh nghiệm chiến trường. Thế nhưng qua các trận đánh khởi đầu vào đất Gia định đã bốn lần đại thắng quân Xiêm la (Thái lan), đến trận đại phá 20 vạn quân Thanh, đã chứng tỏ Nguyễn Huệ – Quang Trung quả là Thiên tài quân sự.
Thật vậy đọc lịch sử đã cho thấy mưu trí Trời cho Nguyễn Huệ để phá tan cường địch nhà Thanh. Không trường lớp nào dạy ông, nhưng trước khi ra quân Nguyễn Huệ đã biết cách nắm vững tinh thần tướng sĩ, củng cố được niềm tin tất thắng. Về điểm này, lịch sử có ghi lại, sau nhiều tháng ngày hành quân thần tốc Bắc tiến, ngày 20 tháng chạp năm 1788 thì đến núi Tam điệp. Hai tướng Tây sơn là Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm đều ra tạ tội với vua Quang Trung. Họ tâu rằng vì quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui binh về giữ chỗ hiểm yếu. Nghe vậy, vua Quang Trung không những không một lời khiển trách, mà cười và nói rằng: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu chẳng qua 10 ngày là xong việc…” (3) Và còn định với quân sĩ rằng vào ngày 7 tháng giêng thì vào thành Thăng long mở tiệc ăn mừng chiến thắng. Trong trận đánh Ngọc hồi vào tờ mờ sáng ngày mồng năm tháng giêng năm 1789, quân Tàu bắn súng ra như mưa “Vua Quang Trung đã sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cỡi voi đi sau đốc chiến, quân An nam vào gần tới cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn…” (4)
2.- THIÊN TÀI CHÍNH TRỊ:
Là vì xuất thân là người thanh niên áo vải đất Bình Định, không được học cao hiểu rộng, song Nguyễn Huệ từ khi khởi nghiệp đến lúc lên làm vua cai trị muôn dân, Quang Trung Hoàng đế đã chứng tỏ là một người có mưu lược chính trị Trời cho.
Thật vậy, để tạo chính nghĩa thu phục nhân tâm và tạo thế chính đáng cho việc xưng vương, nắm quyền trị vì muôn dân, những sự kiện sau đây đã chứng tỏ vua Quang Trung có thiên tài về chính trị:
- Một là sau khi đem quân ra Bắc Hà diệt họ Trịnh chuyên quyền, Nguyễn Huệ vẫn tôn vua Lê. Sử gia Trần trọng Kim nhận định “Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy”.
- Hai là khi đem quân ra Bắc hà diệt Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền, vẫn không dứt nhà Lê, đặt Giám đốc để giữ gìn tông miếu tiên triều. Theo sử gia Trần Trọng Kim “Như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc”.
- Ba là trước khi đại phá quân Thanh ,vua Quang Trung đã có ý định hoà hoãn với cường quốc phương Bắc và sau đó đã thực hiện việc triều cống và xin phong vương, do biết lượng sức và tính đến sự lợi hạị cho quốc gia và thần dân. Trước khi tiến vào Thăng long, Vua Quang Trung đã nói rõ ý định với tướng sĩ rằng: “..Chúng là nước lớn gấp 10 lần nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta làm sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Ðợi mười năm nữa nước ta dưỡng được sức phù cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa.” (5) Sau khị đại thắng quân Thanh, Vua Quang Trung đã thực hiện ý định vừa kể bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An , Hoà Thân …) để vua Thanh chấp nhận cầu phong của vua nước Nam, vừa giữ được thể diện trước văn võ bá quan (cho người đóng vai Quang Trung giả qua triều yết vua Thanh…)
- Bốn là mặc dầu đã được sắc phong của nhà Thanh, nhưng vua Quang Trung vẫn hành xử theo cách Hoàng Ðế, lập công chúa Ngọc Hân con vua Hiến Tông nhà Lê làm Bắc cung Hoàng hậu, tin dùng các cựu nhân tài cận thần nhà Lê.
Tóm lại như lời nhận định của sử gia Trần Trọng Kim về vua Quang Trung: “Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng .. .” (6)
III.- HOÀNG ÐẾ QUANG TRUNG: MỘT ÐẠI ANH HÙNG DÂN TỘC
Ðọc lịch sử ai cũng biết là mặc dầu vua Gia Long có công thống nhất đất nước, và đối với Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn bị coi là kẻ thù đến độ sau khi diệt được nhà Tây Sơn, Gia Long đã có những hành vi trả thù tàn tệ và bất nhẫn. Thế nhưng, vua Quang Trung vẫn được lịch sử và nhân dân Việt Nam mãi mãi coi là vị Ðại Anh Hùng Dân Tộc, còn Gia Long thì không… Ðiều này cho thấy tính khách quan của lịch sử và sự đánh giá công tội của các vì vua và triều đại rất công minh.
Là đại anh hùng dân tộc, vì những phẩm chất và công trạng phi thường của vua Quang Trung như đã được lịch sử ghi nhận và đánh giá, đã là niềm kiêu hãnh và tự hào chung cho dân tộc Việt Nam qua nhiều thế hệ. Vì tất cả công trạng và phẩm chất ấy của vua Quang Trung đã tận hiến cho dân, cho nước, cho dân tộc và cho Tổ quốc Việt Nam. Tiếc thay nhân tài bạc mệnh, vua Quang Trung mới trị vì được bốn năm thì băng hà, ở vào tuổi đời 40 (1752-1792). Vua Quang Trung mất sớm là một mất mát lớn lao cho dân, cho nước, và cho lịch sử Việt Nam. Bởi vì, những cải cách sáng tạo về nội trị có tính cách mạng đầy triển vọng mới bắt đầu, và ý định đánh Tàu đòi đất (Lưỡng Quảng) chưa kịp thực hiện, thì vua Quang Trung đã mất. Vì vậy, đã có giả định rằng, nếu vua Quang Trung sống lâu hơn, chắc chắn lịch sử Việt Nam đã ghi được nhiều điểm son rất đáng tự hào trong triều đại Nhà Tây sơn… Giả định này có cơ sở, vì Nguyễn Huệ – Quang Trung đã chứng tỏ những tư chất hiếm hoi: nhà cách mạng thời đại, thiên tài quân sự và chính trị, và là một đại anh hùng dân tộc.
Hàng năm mỗi độ xuân về, nếu những người đồng hương Bình Định vốn có niềm tự hào tự nhiên về quê hương mình đã sản sinh ra một đấng Anh hùng, thì toàn dân Việt cũng có niềm kiêu hãnh về đất nước mình đã có một đại anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung. Tự hào và kiêu hãnh chưa đủ, mà cần tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn đối với vua Quang Trung nói riêng và các anh hùng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, qua các buổi lễ kỷ niệm long trọng hàng năm, mang màu sắc và tính chất cổ truyền dân tộc. Ðiều này rất quan trọng, để con cháu chúng ta ở hải ngoại không quên nguồn gốc rất đáng kiêu hãnh và tự hào về quê hương đất nước Việt Nam của mình, đã sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc và các nhân tài trên mọi lãnh vực, qua mọi thời đại, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Thiện Ý
Nếu Vua Quang Trung Không Mất Sớm
Huệ Vũ:
Sau chiến thắng mùa xuân Kỷ Dậu, vua Quang Trung nỗ lực xây dựng đất nước. Dù chỉ tại vị có 4 năm ngắn ngủi, nhưng vua đã chứng tỏ ngài không phải chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc nhất trong lịch sử mà còn là một nhà chính trị xuất sắc nhất, với hùng tâm mở một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt.
Về chính trị, ngài chia đổi Thăng Long thành Bắc thành, chia miền Trung châu Bắc hà thành 7 trấn là: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Phụng Thiên, Thanh Hóa ngoại. Miền sơn cuớc chia thành 7 trấn: Lạng Sơn, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Yên Quảng, Lạng Sơn, Cao Bằng và Tuyên Quang. Ngài tính dời đô từ Phú xuân ra Nghệ an và nhờ La Sơn phu tử xây kinh đô ở đây gọi là Phượng Hoàng Trung Ðô. Ngài chấn chỉnh lại thuế khóa, khuyến khích việc gia tăng sản xuất. Ðến năm Quang Trung thứ tư, đời sống của người dân mười phần khổ cực trước đây đã bớt đến năm sáu. Ngài đã tích cực kêu gọi nhân tài Bắc hà ra giúp nước. Ðối với La Sơn phu tử, ngài không đích thân đến cầu, nhưng mấy bận viết thư với những lời lẽ chí thành, và cuối cùng nhà Nho tên tuổi đứng đầu đất Bắc này đã nhận lời đứng xây Phượng Hoàng Trung Ðô cho ngài.
Về văn hóa, ngài cho mở trường học khắp các thôn xã. Những nơi nào không thể mở trường học thì mượn đình chùa làm nơi dạy dỗ. Vua Quang Trung là ông vua Việt nam đầu tiên đã có sáng kiến áp dụng một nền giáo dục phổ thông cho dân chúng. Và ngài cũng là vị vua đầu tiên đã thực hiện một cuộc cách mạng dân tộc là dùng chữ Nôm trong tất cả các chiếu biểu, văn thư hành chánh. Giám mục Bá Ða Lộc đã ra sức giúp Nguyễn Phúc Ánh để mong được tự do truyền đạo sau này, thì những nhà truyền giáo và giáo dân dưới thời nhà Nguyễn sau này bị nạn “Sát Tả” bức hại đến khủng khiếp, nhưng dưới thời Quang Trung, thì nhà vua đã thực hiện một nền bình đẳng và tự do tôn giáo. Những nhà truyền giáo ở đất Bắc trong thời Quang Trung như giáo sĩ Le Roy trong thư gửi cho Bladin ngày 18-7-1793, đã không hết lời khen ngợi sự tiến bộ trong công việc truyền đạo dưới chế độ Tây Sơn.
Về quân sự, quân lực Tây Sơn gồm 5 quân căn bản là: Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu và những đội quân đặc biệt dùng như lực lượng trừ bị là: Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Kiến thành, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sánh, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị Lân, Thị Loan. Ở các phủ huyện, có quân đội địa phương gồm có Ðạo, Cơ, Ðội. Quân chủ lực của Tây Sơn bấy giờ cứ 5 người mới có một cây súng trường, nhưng thiện dụng hỏa hổ, và gan dạ phi thường. Vì chuẩn bị đánh nhau với nhà Thanh sau này, ngài thu đố đồng trong nước để đúc đồ binh khí.
Về ngoại giao, thời đại Quang Trung là thời đại ngoại giao vàng son nhất lịch sử chúng ta. Từ xưa chưa có một vị vua nào tỏ vẻ lấn áp Trung hoa như vua Quang Trung. Trước hết, ngài đã không chịu thân hành đi đón sắc phong của vua Càn Long, hủy bỏ tục cống người vàng hằng năm cho Tàu để đền mạng Liễu Thăng đã có kể từ thời vua Lê Thái tổ. Và cuối cùng cử sứ bộ sang Tàu đòi hai hai tỉnh Quảng Ðông và Quảng Tây, cũng như xin cưới công chúa nhà Thanh. Ðòi hỏi của vua Quang Trung đúng là sự khiêu khích đối với Càn Long, là một ông vua cao ngạo và anh minh vào bậc nhất đời nhà Thanh. Tuy nhiên, khiếp uy Quang Trung, Càn Long đã phải chấp nhận để tỉnh Quảng Tây cho vua đóng đô và chọn ngày đưa công chúa Thanh qua Việt nam.
Ðau đớn thay, trong khi nhà Thanh chuẩn bị đáp ứng những đòi hỏi của Việt nam thì vua Quang Trung lại sớm ra đi. Vũ Văn Dũng cầm đầu phái bộ ở Bắc kinh lúc bấy giờ khi nghe tin vua mất đã ngã ra chết giấc, và sau đó có làm bài thơ khóc vua như sau:
Bố y phấn tích ngũ niên trung
Kim cổ thi vi sự bất đồng
Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
Bất ư Ðường, Tống thuyết anh hùng
Anh Hợp dịch:
Năm năm dấy nghiệp tự thôn nông
Thời trước, thời sau khó sánh cùng
Trời để vua ta thêm chục tuổi
Anh hào Ðường, Tống hết khoe hùng.
Lịch sử không thể nói hết những nét phi thường của vua Quang Trung. Ngài là một vị tướng bách thắng. từ lúc cầm quân đánh Phú yên cho đến lúc mất chưa bao giờ biết nếm mùi thất bại. Ngài là một nhà chính trị tài ba chứng tỏ sau bốn năm xây dựng Bắc hà qua các chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục. Nhưng tình hình Nam kỳ, cũng như chính sách của nhà Tây Sơn đối với Mãn Thanh lúc bấy giờ, đã có hai quan điểm khác nhau đối với tương lai của Việt nam nếu ngài còn sống thêm một kỷ nữa.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, với tài năng phi thường của vua Quang Trung, ngài còn sống thêm lãnh thổ Việt nam đã thay đổi, tình hình chính trị ở Á châu cũng hoàn toàn thay đổi bộ mặt và vua Quang Trung có thêm cơ hội để chứng tỏ thêm sự phi thường tột bực của ngài. Quan điểm thứ hai đặt ra nhiều nghi ngờ là có thể nhà Tây Sơn lưỡng đầu thọ địch và tình trạng cũng khó biết đi về đâu.
Trong lúc Quang Trung cả phá quân Thanh, thì lúc bấy giờ ở miền Nam, Nguyễn Phúc Ánh tấn công thành Gia định, và trong khi ở Thăng long vua Quang Trung bắt tay bình định đất Bắc, thì cũng trong mùa xuân Kỷ Dậu (1789), Phúc Ánh đánh bại Phạm Văn Tham, và chiếm trọn đất Nam kỳ.
Từ năm 1789 đến năm 1792, trong khi ở Bắc vua Quang Trung củng cố lực lượng để chuẩn bị đánh Tàu thì ở trong Nam, Nguyễn Phúc Ánh cũng tích cực xây dựng lực lượng để tiến ra Trung. Trong khi Quang Trung chuẩn bị mười năm để đánh Tàu, thì ở trong Nam, Nguyễn Phúc Ánh cũng dự định một thời gian 13 năm để Bắc phạt.
Ðầu năm 1789, Nguyễn Phúc Ánh chiếm Gia định thì trong năm đó, Hoàng tử Cảnh và Giám mục Bá Ða Lộc trở về, mang theo khoảng 300 tay phiêu lưu người Pháp, tàu chiến và dụng cụ quân sự. Những người Pháp góp công rất lớn cho Nguyễn Ánh có nhiều người được phong tước hầu như Jean Marie Dayot chỉ huy tàu Nhị Chích là Trí Lược hầu, Julien Girard được phong là Long Hưng hầu, Guillaume Gouilloux được phong là Oai Dũng hầu, De Forcant lấy tên Việt là Nguyễn Văn Lăng được phong là Lăng Ðức hầu, Jean Baptist Chaigneau lấy tên Việt là Nguyễn Văn Thắng được phong là Toàn Thắng hầu. Với sự giúp đỡ của những người Pháp do Giám mục Bá Ða Lộc mang tới, Nguyễn Phúc Ánh xây dựng lực lượng quân sự, huấn luyện binh sĩ theo kỹ thuật Âu châu, đóng thêm tàu chiến, xây dựng thành trì. Olivier Puymanuel là người đã xây dựng thành Gia định, và nhất là sau này đã xây thành Diên khánh kiên cố, nhờ đó mà Hoàng tử Cảnh có thể chịu nổi sức tấn công của Trần Quang Diệu. Trong số người Pháp giúp chúa Nguyễn, Théodore Lebrun và Olivier đã trở thành hai nhà ngoại giao. Họ đã đi sang Macao, Manila, Nam dương, Tân gia ba mua thêm súng ống đạn dược cho Gia định. Chỉ trong năm 1791, Nguyễn Phúc Ánh đã mua của một thương gia Bồ Ðào Nha một vạn súng điểu thương, 2000 cỗ súng gang (mỗi cỗ nặng 100 cân Anh), 2000 viên đạn nổ lớn (mỗi viên đường kính 10 tấc). Ðại bác của Nguyễn Phúc Ánh lúc bấy giờ tân tiến hơn đại bác của Tây Sơn rất nhiều, súng được đặt lên xe đẩy, bắn xa và chính xác hơn. Nguyễn Phúc Ánh cũng đã tích cực phát triển hải quân, lập xưởng thủy sư từ bờ sông Tân bình đến bờ sông Bình Trị dài trên 3 dặm lo việc đóng tàu.
Chỉ trong 2 năm xây dựng sức mạnh ở Nam kỳ, năm 1790, Nguyễn Phúc Ánh đã bắt đầu thử lửa với Tây Sơn. Tháng 4 năm này, Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, Võ Tánh đem quân đánh Phan rí, Bình thuận. Dù chiếm được hai nơi này, nhưng khi Tây sơn đem binh vào tái chiếm, Lê Văn Quân không giữ được, sau xấu hổ tự tử. Cuộc ra quân năm 1790 của Nguyễn Ánh, dù thua trận nhưng cũng chứng tỏ miền Nam không còn chỉ là nơi mong lo thế tự phòng.
Vào năm Nhâm Tý, Nguyễn Phúc Ánh và chư tướng đã bàn kế hoạch tấn công Tây Sơn, là hàng năm cứ vào mùa gió nồm, mang quân ra quấy phá. Tháng 6 năm 1792, một tháng trước khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Phúc Ánh đã mang một lực lượng hải quân hùng hậu ra tấn công Thị nại. Cuộc tấn công của quân Nam vào cửa Thị nại gồm đủ mặt các tướng cừ khôi của hải quân Nam kỳ: Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Dayot, Vannier, De Redon, D’Auray, Olivier de Carpentras.
Cuộc tấn công Thị Nại của quân Nam đã thành công rất dễ dàng. Chỉ trong giây lát, thuyền Nam quân đã xông hết vào quân cảng, đốt sạch doanh trại, thuyền bè Tây Sơn, chỉ để lại 5 chiến hạm và 20 chiếc thuyền có tay chèo, thu làm chiến lợi phẩm. Trận thủy chiến Thị nại năm 1792, nhiều tướng lãnh nhà Nguyễn cũng như các sĩ quan Pháp về sau cho rằng, nếu Nguyễn vương không có tâm trạng còn quá e sợ quân Tây Sơn, lúc bấy giờ đổ bộ lên Qui nhơn, thì trong lúc bất ngờ đó có thể chiếm được thành này và bắt được vua Thái Ðức.
Sự thành công của chiến trận Thị nại trong tháng 6-1792 của quân Nam đã chứng tỏ họ đã gây được sự lo âu cho Quang Trung. Khi sắp mất, ngài đã phải căn dặn Trần Quang Diệu: “Ta mở mang bờ cõi khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm tất không dậy được. Thái tử tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài có quân Gia định Nguyễn Ánh là quốc thù, mà Thái Ðức thì tuổi già ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi trong một tháng phải lo chôn cất, việc tang làm lạo thạo mà thôi. Lũ ngươi nên hợp sức giúp thái tử sớm thiên về Vĩnh đô để khống chế thiên hạ. Bằng chẳng, quân Gia định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu.” (Quang Trung Nguyễn Huệ, Bùi Tiên Khôi) Lời dặn của vua Quang Trung đã không được tướng tá Tây Sơn tuân theo, lại đưa đến những cuộc tranh giành quyền lực khuynh loát lẫn nhau.
Việc Võ Văn Dũng giết Ngô Văn Sở, Bùi Ðắc Tuyên đã làm cho Trần quang Diệu phải rút quân đang vây Diên khánh và Lê Trung trong lúc đuổi quân Nam của Nguyễn Hoàng Ðức đến tận Bà rịa cũng phải rút lui đã bỏ mất cái thế của Tây Sơn trong năm 1795. Kế đó Cảnh Thịnh đã để cây cột chống trời của Tây sơn là Trần Quang Diệu ngồi chơi xơi nước một thời gian dài. Rồi đến năm 1798, vua Cảnh Thịnh nghe lời dèm siểm giết mất Lê Trung, làm rể Lê Trung là Lê Chất phải hàng Gia định, và sau đó là Nguyễn văn Huấn lại bị lời dèm siểm của Hồ Công Diệu để bị tử hình, Cảnh Thịnh đã tự chặt mất tay chân của mình, làm nhân tâm ly tán đem thêm cơ hội thành công cho chúa Nguyễn.
Không ai không đồng ý là sau khi vua Quang Trung mất, ông có một thái tử lớn tuổi, không chỉ mới lên 10 như Nguyễn Quang Toản, nội bộ Tây Sơn ổn định, thì chúa Nguyễn cũng không dễ thống nhất đất nước vào năm 1801 mà so với sức mạnh của hai bên thời bấy giờ, có thể tình trạng Nam – Bắc sẽ kéo dài rất lâu.
Lịch sử cũng đồng ý với tài điều binh khiển tướng thần sầu khấp qủy của vua Quang Trung, nếu ngài không mất sớm Nguyễn Phúc Ánh dù có mua được bao nhiêu chiến cụ tối tân của Âu châu cũng không thể ngóc đầu lên nổi.
Chiến lược của Nguyễn Phúc Ánh đối với Tây Sơn không phải chỉ mong ở sự trang bị cho quân đội bằng vũ khí Tây phương mà vận dụng những quốc gia lân bang tiếp tay cho mình. Suốt quá trình “phục quốc” của Nguyễn Phúc Ánh là cầu viện ngoại bang. Liên minh Nguyễn Phúc Ánh và Xiêm La là một liên minh rất chặt chẽ. Một thứ thế ỷ dốc để dựa vào nhau. Năm Quý Sửu 1793, trong lúc Nguyễn vương đánh Qui nhơn, vua Xiêm và đại tướng Chất Tri đã đem 5 vạn quân xuống Nam vang, 500 chiến thuyền đến Hà tiên, sai sứ giả mang thư đến Nguyễn Phúc Ánh cho biết sẵn sàng theo quân Gia định bắc chinh. vì chúa Nguyễn lúc bấy giờ đã rút quân về nên quân Xiêm La mới rút về nước. Trong năm 1794, Xiêm La đã hẹn ngày cùng chúa Nguyễn cất quân đánh Phú xuân, quân Xiêm sẽ đi đường bộ đánh mặt sau của Phú xuân, còn quân Nguyễn thì đánh mặt trước. Tháng 12-1794, Phúc Ánh đã sai sứ sang Xiêm dục động binh, nhưng vì bấy giờ xiêm bị Miến xâm lăng nên lại phải nhờ chúa Nguyễn giúp đỡ. Chúa sai Nguyễn Huỳnh Ðức, Nguyễn Văn Trương đem quân giúp cho Xiêm.
Liên minh để tấn công Tây Sơn không phải chỉ có Xiêm La, mà cả Chân Lạp và Lào. Trong năm 1791, vì Ai Lao không chịu tiến cống, vua Quang Trung đã sai Trần Quang Diệu đem quân sang Vạn Tượng, thu hết tài vật của Vạn Tượng đem về, nên Vạn tượng đã thù Tây Sơn và sau này Vạn tượng đã đem binh đánh Nghệ an, giúp Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh trong nỗ lực đánh bại Tây Sơn đã không phải chỉ nhò sự giúp đỡ của người Pháp, liên kết với Xiêm La, chân Lạp, Ai Lao, mà đối với nhà Mãn Thanh cũng đã coi như một nơi có thể nhờ cậy. Trong thời gian quân Thanh xuống Bắc hà, Gia Ðịnh phái Phan Văn Trọng và Lâm Ðề mang 50 vạn cân gạo ra Bắc để tiếp quân lương cho Mãn Thanh, và dâng thơ cho Tôn Sĩ Nghị, nhưng thuyền đi đường bị gió bão đánh đắm.
Hy vọng đối với Mãn Thanh của chúa Nguyễn tiêu tan khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan trong 7 ngày, và sau đó vua Càn Long lại sắc phong cho vua Quang Trung. Tuy nhiên, Gia Ðịnh vẫn đặt hy vọng này. Sớ của Nguyễn Văn Thành và Ðặng Trần Thường dâng lên chúa Nguyễn đã nói lên điều này: “Hiện ta với Tây Sơn đối địch, không thể không dùng ngoại giao để cầu viện. Nhà Thanh từ khi bị Tây Sơn đánh bại, chắc cũng căm hờn để chờ cơ hội. Nay vua Gia Khánh nối ngôi, buổi đầu đang hăng hái, không phải cái khí tượng đời Càn Long nữa. Nhà Thanh vốn lo giặc biển chưa có cách khống chế, đã bảo Tây Sơn tìm bắt, nhưng nó lơ đi. Vậy nhà Thanh không chỉ giận giặc biển mà giận đến Tây Sơn nữa. Vả lại, nam bắc xa xôi, nhà Thanh tưởng đâu Tây Sơn đã chiếm cả bờ cõi Nam Việt, không ai đối đãi nổi, nên vẫn chưa định ngày xuất quân, hoặc giả đó là một cớ. Từ khi quân ta thắng trận ở Ðà nẵng, bắt được nhiều tàu giặc ô biển. Bọn thần đề nghị soạn một bài biểu, lấy mấy thuyền tàu ô đem dâng, ắt vua Thanh phải khen, nhận. Nếu nhân đó đến được chầu tận nơi, thì ta sẽ biện bạch phải trái. Một là nói rõ Tây Sơn xưng thần ở Trung quốc mà xưng đế ở ngoài, đập vào chỗ kỵ của họ mà gây hiềm khích…”
Trong năm 1798, quân Nguyễn so với Tây Sơn cũng không còn sút kém, thế nhưng họ vẫn muốn được liên kết với nhà Thanh để hai mặt đánh Tây Sơn. Ðiều này làm nhiều người cho rằng, nếu vua Quang Trung còn, cuộc chiến giữa Tây Sơn và Mãn Thanh xảy ra, quân chúa Nguyễn sẽ đánh đàng trong, quân Thanh đánh mặt Bắc, hải quân nhà Thanh và chúa Nguyễn tấn công mặt đông, liên quân Xiêm La – Chân Lạp – Vạn Tượng đánh phía tây sẽ dồn Tây Sơn vào thế bốn bề thọ địch, thì chưa có thể dám kết luận vua Quang Trung sẽ có thể phá vỡ thế tấn công đó.
Sự việc hẳn không thể như vậy. Theo một tài liệu của giáo sĩ Cadière thì giáo sĩ Le Labousse đã có viết: “Vào tháng 2 năm 1792, trước ngày chúng tôi rời bỏ các con chiên và cũng để tránh kẻ địch, họ kéo tới vài chục ngàn quân do đường Lào và đàng hoàng tiến vào Cao Miên. Người Miên cũng tính theo họ, mà về phần Nguyễn Huệ sẽ cùng hải quân ập vào các cửa bể miền Nam để chặn đường rút lui của chúa Nguyễn. Nếu dự định này được thi hành, thì nhà vua cùng chúng tôi chỉ chờ chết. Nhưng nhờ ơn trên, việc này không thấy thi hành nên chúng tôi thoát được cơn giông tố nguy hiểm ấy, hoặc do Tây Sơn e ngại các chiến hạm của người Âu châu đang đóng đầy các cửa sông Sài Côn do việc buôn bán, hoặc vì hai đạo quân của vua Xiêm La cho qua đã ngăn chúng lại ở Cao Mên”. Lá thư của Le Labousse và lời trối trăn của vua với Trần Quang Diệu trước phút lâm chung, cho thấy vua Quang Trung không thể là một người không chuẩn bị để khi có can qua với Thanh đình, thì quân Tây Sơn phải đương cự cùng lúc bốn mặt giáp công hay lưỡng bề thọ địch.
Sau khi thắng Mãn Thanh, Ngô Thì Nhậm đã thảo một bức thư nhờ Thang Hùng Nghiệp, tổng đốc Quảng Tây dâng lên vua Càn Long lời lẽ vô cùng nhún nhường:
“…Tôi là Nguyễn Quang Bình ở khuất nẻo bên An nam, bấy lâu vẫn được tắm gội trong thánh giáo…
Tôi ở hẻo lánh tận tít chân trời, đường sá xa xôi, núi sông cách trở, chẳng hay việc đó có hẳn do ý hoàng đế sai làm hay do Tôn Sĩ Nghị vì một người đàn bà xui khiến, rồi mang kiêu hãnh lập công ở biên thùy để hòng kiếm lợi lớn?
Hay tin có binh mã thượng quốc ra khỏi cửa ải, tôi nghĩ: tấc lòng sợ mạng trời, phục nước lớn của mình bấy lâu nay đã bị kẻ khổn thần ngăn trở mà cái cớ Duy Kỳ trốn bỏ nước kia lại bị che lấp không thông đạt lên được, sau này mối binh tranh hùng xảy ra thì tai hại xảy ra không phải là ít!
…châu chấu đá xe, tôi thật lòng không dám, song cửa vua xa cách muôn dặm, hễ tôi nhúc nhích điều gì thì bị kẻ khổn thần hiếp đáp không sao chịu nổi, nhưng hình tích mới dường như chống cự…
… Nép nghĩ Hoàng đế là bậc theo ý trời ban nghị hoà, làm cho cành khô được xanh tươi, cây kiệt lại nẩy nở. Xin ngài lựa theo tự nhiên, thứ cho cái tội đón đánh Sĩ Nghị, và xét cho tấc thành mấy phen đã đi gõ cửa ải…”
(Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ)
Lá thư của vua Quang Trung gởi vua Càn Long nói trên cho thấy vua Quang Trung rất biết người biết mình, biết chưa đủ sức chống lại đợt trả thù định huy động đến năm chục vạn binh 9 tỉnh miền Nam của Mãn Thanh, phải nhún nhường qua ải.
Sau khi Càn Long hủy bỏ quyết định huy động quân dân 9 tỉnh miền Nam Trung quốc Nam chinh, thì vua Quang Trung mới bắt đầu chứng tỏ sự độc lập của mình. Những gì nhà vua làm sau đó, đều có tính toán vì thăm dò được phản ứng của triều đình nhà Mãn. Vì thế, những đòi hỏi của vua Quang Trung như đòi Lưỡng Quảng, thì cũng gần như được thoả mãn một nửa. Vua Quang Trung có thể nuôi hùng tâm sẽ tấn công nước Tàu, vì Nữ Chân cũng là một nước nhỏ mà có thể vào làm vua Trung quốc. Và hơn nữa, bấy giờ những nghĩa sĩ Trung quốc, nhất là miền Nam Trung hoa đã có những phong trào kháng Thanh nổi lên rất mạnh.
Theo dự trù phải 10 năm, vua Quang Trung mới có thể thực hiện giấc mộng vĩ đại của mình. Tình trạng bang giao giữa hai nước cho đến năm 1792, coi như vẫn hoàn toàn thuận lợi cho Tây Sơn. Nếu ông còn sống, thu nạp công chúa con vua Càn Long, thì áp lực mặt Bắc lại có thể vì đó mà không còn phải lo lắng nữa, nếu như Quang Trung không khiêu khích thêm, và buộc Mãn Thanh phải phản ứng.
Hẳn vua Quang Trung sẽ không khiêu khích Bắc Kinh khi sứ bộ Võ Văn Dũng đã đạt những đòi hỏi. Và năm 1792, sau khi Thị nại bị tấn công là lúc Quang Trung chuẩn bị diệt mối lo nằm sau lưng. Lá thư của Le Labousse, sự lo âu của Nguyễn Phúc Ánh bày tỏ với sứ thần Xiêm La: “Rất có thể Huệ đem quân vượt qua đường Lào và Cao Mên để đánh miền Nam, thủy quân của Huệ cũng sẽ lần theo hải đạo đến Côn Lôn và hoạt động tại Xiêm La, Hà tiên, tới chiếm đóng Long xuyên, Kiên giang rồi hợp với bộ binh ở Sài Côn…” và cũng như mối lo của ngài bày tỏ với Trần Quang Diệu lúc lâm chung, cho thấy Quang Trung không khinh thường lực lượng Gia Ðịnh. Như vậy, nếu có thực hiện cuộc Bắc phạt đánh nhà Thanh, ngài phải diệt gọn lực lượng của Nguyễn Phúc Ánh trước đã. Diệt xong Nguyễn Phúc Ánh, những nước như Xiêm La, Cao Miên, Vạn Tượng không còn là mối lo đối với Tây Sơn, mà biết đâu họ lại là những nước lại xoay sang liên kết với Việt nam để ngó lên miền Bắc.
Ngài đã mất sớm. Khổng Minh mất, Tư Mã Ý được thời đắc chí là tình trạng bấy giờ. Ngài mất đất nước ta đã mất một cơ hội. Nước Tàu sau khi Càn Long mất đã đi vào con đường suy thoái. Một nước Việt dù nhỏ, nhưng có một nhà vua hùng tài đại lược như vua Quang Trung, vận nước đã xoay chuyển những bước xoay khó mà tưởng tượng.
Quang Trung mất trong năm 1792 là cơ may, là thời trời cho Nguyễn Phúc Ánh, và có lẽ cũng là vận mệnh bắt dân Việt nam phải chịu 80 năm đô hộ… Dân tộc phải chịu đựng đau buồn, không thể sánh vai cùng các nước Á châu, mà trước đây so với Việt nam họ còn lạc hậu hơn nhiều.
HUỆ VŨ
Câu Chuyện Dưới Cờ
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn,[38][39] tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn.
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long.
Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía Tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía Nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía Nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía Bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.
Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,[40] nên gọi là gò Đống Đa.
Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.[41] Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.[42][43] Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.